Mới cập nhật

Lịch sử về tướng số

Nguồn gốc ra đời của tướng - số:

Nguồn gốc ra đời của tướng - số bắt đầu từ quốc gia nào, còn cần phải được tiếp tục nghiên cứu. Riêng có sách về tướng - số, xuất hiện nhiều ở Trung Quốc cổ đại, trung đại.

xem-quai-vat-khong-lo-mac-nghen-khi-an-ngoi-sao

Theo học thuyết của nhà bác học lớn của nước Anh, S.Đácuyn (1809-1882), thì nguồn gốc của loài người là vượn người; tiếp đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, việc dùng công cụ lao động đã giúp người ta thoát khỏi tình trạng loài vật. Việc dùng công cụ lao động đã làm cho con người biến đổi về mặt sinh lý, làm cho bàn tay, bộ óc phát triển, ngôn ngữ xuất hiện, do đó, con người khác các loài động vật khác về bản chất. Cũng từ đó, con người ý thức được sự đe dọa của thiên nhiên, hoàn cảnh đối với chính bản thân mình, dần dần nảy sinh suy nghĩ về thân phận, số phận của mình. Đó là mầm mống ra đời của tướng - số (vận mệnh, số mệnh, số phận).

Theo quan niệm của người đời xưa, mọi hiện tượng xảy ra trong cuộc đời con người, từ chuyện giàu nghèo, sang hèn, họa phúc, may rủi, sống chết, được mất đến học hành, thi cử, buôn bán,... đều bị một thế lực vô hình chi phối, đó là vận mệnh, số mệnh, số phận. Quan niệm về vận mệnh, số mệnh, số phận của con người đã có từ thời cổ đại. Theo Khổng Tử, sự sống chết, giàu nghèo, sướng khổ của một người đều có liên quan mật thiết đến đấng tối cao, mà con người chỉ có thể khuôn theo. Vì vậy, Khổng Tử kết luận: “Nếu không hiểu về số mệnh, không phải là người quân tử”.

Đến thời Tây Hán, tướng - số đã phát triển lên một bước. Các loại phương thuật mê tín như phép thuật thầy mo, điểm bùa ứng, chọn ngày, gieo quẻ, xem tướng, cúng tế. Bói sao cũng phát triển mạnh ở thời kỳ này. Quan niệm về vận mệnh, số mệnh, số phận cũng được truyền bá rộng rãi. Ngay như Vương Sung, tuy cự tuyết với bói toán, cúng tế, nhưng lại rất tin vào vận mệnh, số mệnh, số phận. Theo Vương Sung, từ bậc thánh hiền, công tử đến thứ dân, mỗi người đều có lá số; sang hèn, giàu nghèo đều do số mệnh định đoạt; không phải do sự thông minh hay ngu đần. Người đời xưa tin vận mệnh, số mệnh, số phận, cho nên đã cố gắng giữ gìn, hướng lành, thiện, tránh xấu, ác. Đó là nguyên nhân ra đời của thuật tướng - số.

Theo nghiên cứu của tôi qua các sách, báo trong nước và ngoài nước, thuật tướng - số Trung Quốc bắt đầu xuất hiện vào thời Hán, lưu truyền và phát triển dần qua các triều đại Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều,... Nhưng trước đó, “từ thời Tiên Tần ở Trung Quốc đã có các phép bốc vu, chiêm tinh, phong thủy. Đến thời Lưỡng Hán xuất hiện các phép Âm Dương, thiên văn, hình pháp, thi quy, tạp chiêm. Đến thời Ngụy Tấn, có thêm các phép Lục nhâm, Thái Ất, Cửu cung, Kỳ môn độn giáp”1. Đến thời Đường, thuật tướng - số chính thức được xác lập. Người ghi dấu ấn thuật tướng - số thời Đường là Lý Hư Trung. Đến thời Ngũ Đại, Từ Tử Bình đã nghiên cứu, hoàn thiện, phát triển thuật tướng - số của Lý Hư Trung. “Sang thời Tống, Trần Đoàn sáng tạo ra môn “Tử vi đầu số”, bói bằng tinh tượng, trở thành trường phái phổ biến nhất trong mệnh lý học truyền thống Trung Hoa. Một môn dự đoán học quan trọng khác là “Mai hoa dịch số” do Thiệu Ung phát minh”2. Từ thời Đường, tướng - số được phát triển rực rỡ qua các thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Các thời kỳ này, các cuốn sách viết về tướng - số cũng liên tục phát triển.

Theo sách “Bạch hổ Thông nghĩa” và sách “Luận hành” của Vương Sung, một nhà lý số lớn của Trung Quốc cổ đại, thì thuật tướng - số của Trung Quốc đã ra đời vào thời Lưỡng Hán (206 trước Công nguyên)3, đến nay đã là hơn 2.200 năm. Đọc “Luận hành” của Vương Sung, thấy Ông phân tích về sự tồn tại tất nhiên của số mệnh, đồng thời, còn đưa ra nhiều luận chứng mang tính gợi mở, giúp ích cho việc tìm hiểu những điều kỳ diệu trong số mệnh. Theo sách “Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc” của tác giả Hồng Phi Mô và Khương Ngọc Trân, thì quan niệm về vận mệnh, số mệnh, số phận đã được các học giả thời Tiên Tần - Lưỡng Hán phân tích, do đó, đã tạo nên trào lưu tin tưởng vào số mệnh, số phận rất thịnh hành trong suốt một thời gian dài, đến nay đã được hàng nghìn năm, trải qua rất nhiều triều đại của Trung Quốc và các nước. Ngay từ thời Ân Thương, giai cấp thống trị đã quen với việc trước khi làm việc gì đều phải xem bói, xem ý trời thế nào, tốt, xấu ra sao. Sau đó, do ảnh hưởng của quan niệm về sự tương ứng giữa người và trời đất, cho nên người ta lại tin rằng, vận mệnh của cả thiên hạ và của mỗi người đều liên quan đến thiên thời, tinh tú, lấp lánh các vì sao, đến phong thủy. Trong sách “Chu Lễ - Xuân Quan”, chép: “Phùng Tướng Thị cai quản 12 năm, 12 tháng, 12 giờ, 10 ngày và 28 chòm sao, dựa vào đó mà đoán biết số trời”1. Còn “Bảo Chương Thị, thì quan sát sao trời, ghi chép những biến động, thay đổi của các vì sao, giờ, ngày, tháng, năm, quan sát những thay đổi của thiên hạ để dựa vào đó mà phân biệt tốt, xấu, phân chia địa giới, mỗi vùng đất tương ứng với một vì sao, từ đó đoán định cát, hung”2. Tuy nhiên, do phương pháp bói quẻ đoán sao nhằm phán đoán việc cát, hung, họa phúc của con người chỉ có thể dùng làm căn cứ để phân tích những hiện tượng đã xảy ra và dự đoán các việc cần làm trong tương lai gần, chứ không biết được sự giàu nghèo, may rủi, sống chết của con người. Vì vậy, thuật tướng - số ra đời họa chăng có thể đoán được vận mệnh của cả đời người, bao gồm cả quá khứ, hiện tại, tương lai. Có thể nói sự ra đời của thuật tướng - số là sản phẩm tất yếu khi xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định và có thể nó bắt đầu từ Trung Quốc, sau đó, lan tỏa sang các nước. Trong quá trình hình thành và phát triển thuật tướng - số, dần dần người ta phát hiện ra “vận” cũng có liên quan mật thiết đến tướng - số, trở thành tướng - số - vận.

Cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển thuật tướng - số đã được gắn với học thuyết Âm - Dương và Ngũ Hành trên phương diện triết học. Các học giả cho rằng, sự ra đời, phát triển, biến hóa của vạn vật trong trời đất và con người, cả xã hội nữa đều là sự đối lập, cân bằng của Âm - Dương, là kết quả của quá trình sinh sôi, phát triển, chế ước lẫn nhau của Ngũ Hành: “Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ”1. Con người là một vật thể nằm trong trời đất, cụ thể là nằm trong hành tinh Trái Đất, cho nên có sự tác động trực tiếp của Âm Dương, Ngũ Hành, thường gọi là “trời phú”. Vì vậy, hiển nhiên Âm Dương, Ngũ Hành kết hợp với những cặp phạm trù của triết học như nhân quả; mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng; hình thức và nội dung, quy luật,... trở thành cơ sở lý luận quan trọng trong việc xem tướng - số - vận. Âm Dương, Ngũ Hành hiển nhiên trở thành cơ sở lý luận quan trọng để các thầy tướng - số đoán định số mệnh của mỗi con người và rộng hơn nữa là của mỗi quốc gia.

Trong sách “Luận hành”, Vương Sung viết: “Con người gặp được may mắn hay vướng phải tai họa đều do số mệnh, có số mệnh định sẵn, sự giàu sang hay nghèo hèn, cũng có số mệnh sống lâu hay chết yểu”2. “Người đã có mệnh phú quý, thì dù bắt phải nghèo hèn cũng sẽ gặp được điều thiện, điều phúc; do đó, nếu đã có số mệnh sang giàu, thì dù đang chịu cảnh nghèo hèn cũng không nên lo lắng, vì sẽ có ngày được thay đổi, còn nếu đã mang số mệnh nghèo hèn, thì dù đang sang giàu cũng chưa thể an tâm”3. Chính vì vậy mà “tài cao đức hậu, chưa hẳn đã giữ được sự giàu sang; bất tài, thiếu đức, chưa chắc sẽ nghèo hèn”4. Nhận định này của Vương Sung phần nhiều nói về sự may rủi. Tuy nhiên, trong thực tế, có bậc tài trí hơn người, được xếp vào hạng “chính nhân quân tử” như Khổng Tử mà vẫn lật đật trong cuộc đời, bởi giàu sang là do số mệnh, không phải nhờ vào tài năng và trí tuệ. Trong trường đời, có người tài năng và trí tuệ, nhưng cả đời vẫn túng thiếu làm sao! Vương Sung còn chỉ ra rằng, từ bậc vương tử đến thứ dân, từ bậc thánh hiền đến những người ngu muội, tất cả những ai có bộ óc, có máu chảy đều có số mệnh cả. Vương Sung viết: “Người tin vào số mệnh, thì có thể âm thầm chờ đợi, không cần cực khổ tìm tòi”5. “Cái phúc của sự giàu sang không thể cầu mà có; cái họa của sự nghèo hèn không thể trừ bỏ đi”6. “Ở đời có người không được dạy dỗ mà nên người, có người được dạy dỗ mà lại không nên người. Tính trời cũng giống như số mệnh vậy”1. Vấn đề này, ý Vương Sung muốn nói, số mệnh gắn liền với tính trời, không phải là điều mà sức người có thể thay đổi.

Qua nghiên cứu, tôi thấy lý luận về tướng - số của Vương Sung có phần thiên về một phía, “cam chịu”. Nếu tư duy như Vương Sung, có lẽ ở đời không ai dám thoát ra khỏi số mệnh, gây nên sự tự ti rất lớn đối với con người. Vì vậy, nếu có tin học thuyết lý số của Vương Sung, thì cũng chỉ nên tin “một nửa” mà thôi. Vì nếu tin cả 100% vào số mệnh, thì con người không còn ý chí phấn đấu, không còn hoài bão trong cuộc đời, và như vậy, sự cam chịu sẽ đeo đẳng cả cuộc đời một con người.

Vương Sung bàn về vấn đề khí thọ hay đoản mệnh: “Cái mệnh mà con người bẩm thụ có hai loại. Một là, cái mệnh buộc phải gặp phải; hai là, cái mệnh mạnh, yếu, thọ, yểu. Những cái buộc phải gặp phải là chiến tranh, hoạn nạn. Mạnh, yếu, thọ, yểu là chỉ cái khí bẩm phụ (có thể là “bẩm thụ” - Đ.V) được dày hay mỏng. Lấy con số 100 để đo sự mạnh, yếu, thọ, yểu, thì những ai chưa tới 100, khí sẽ không đủ. Khí bẩm thụ dày thì cơ thể mạnh, cơ thể mạnh thì mệnh số dài; khí bẩm thụ mỏng thì cơ thể yếu, cơ thể yếu thì mệnh số ngắn. Mệnh số ngắn thì có nhiều bệnh và tuổi thọ thấp. Mới sinh đã chết, chưa sinh mà đã bị thương tổn là do bẩm sinh vốn đã yếu ớt. Người có khí dày, mạnh, tuổi thọ sẽ kéo dài. Nếu không gặp cảnh ngộ bất hạnh, nguy khốn, bị khí ngắn mà chết, là do khí bẩm thụ mỏng manh, đã dùng hết. Những mệnh này đều do khí bẩm thụ không đủ, không đạt đến con số 100”2.

Vương Sung trình bày khá rõ về tư tưởng số mệnh và bước đầu hình thành một hệ thống tư tưởng hoàn chỉnh. Vương Sung quan niệm “quốc mệnh thắng nhân mệnh”; “thọ mệnh thắng lộc mệnh”; “gặp phải tai họa lớn, hoặc sẽ được mệnh lớn che chở mà vượt qua tai nạn, hoặc không thể tránh khỏi”3 để phủ định quan niệm “phi mệnh” của Mặc Gia4. Vương Sung đưa ra ba loại mệnh trong một đời người: chính mệnh; tùy mệnh; tao mệnh. “Chính mệnh là bẩm sinh có được điều tốt lành, tính tình lương thiện, do đó, không cần cầu phúc mà điều tốt lành tự đến”. “Tùy mệnh là nếu cùng hợp sức để làm nhiều việc thiện, thì điều tốt lành sẽ đến, còn nếu sống phóng túng, ham mê dục vọng, thì tai họa sẽ đến”. “Tao mệnh là làm điều thiện lại gặp phải điều ác, không đạt được hy vọng, gặp ở bên ngoài, nhưng cuối cùng trở thành tai họa”. Sau đó, Vương Sung còn nói thêm về “ba tính chất” của chính mệnh, tùy mệnh và tao mệnh: “Chính mệnh bẩm sinh đã có sẵn những tính chất của Ngũ Thường. Tùy mệnh là tùy thuộc vào tính chất của cha, mẹ. Tao mệnh là do gặp phải điều xấu, do đó, nếu người phụ nữ mang thai mà ăn thịt con thỏ, thì con sinh ra sẽ sứt môi”. Vương Sung cho rằng, vào những tháng có tiếng sấm, nếu không tránh đi, thì khi sinh con, đứa trẻ không được vẹn toàn, gặp tai họa lớn, hoặc bị câm điếc, mù mắt, thọt chân. Khí sẽ tổn thương đến bào thai, làm đứa trẻ điên loạn hoặc khờ khạo. Khi mới sinh ra mà lưỡi giống lưỡi dê, tiếng khóc như loài lang sói, thì lớn lên sẽ có tính độc ác và gặp tai họa mà chết. Vương Sung viết: “Tính và mệnh là cái gốc, do đó, “lễ” nêu ra cách dạy trẻ trong bào thai, tức là lúc người mẹ mang thai, nếu chiếu trải không ngay ngắn, thì không ngồi, thức ăn cắt không thẳng thì không ăn, màu sắc không đoan chính thì không nhìn. Lúc đứa trẻ lớn lên, phải nhờ thầy giỏi dạy đạo quân thần phụ tử, đứa trẻ sẽ trở thành bậc hiền tài hay kẻ vô dụng đều ở lúc này. Khi cha mẹ giao hợp mà người mẹ không cẩn thận, để tâm trí bấn loạn và nghĩ đến điều tà ác, thì khi con lớn lên sẽ cuồng loạn, lú lẫn, không lương thiện, hình thể xấu xí”1. Vấn đề mà Vương Sung nêu ra ở đây là có cơ sở khoa học. Có thể nói, tư tưởng cơ bản của Vương Sung về tướng - số là tư tưởng mà Ông gọi là “sơ bẩm”. Điều này đã được Vương Sung phân tích trong Chương “Sơ bẩm” của sách “Luận hành”. Vương Sung viết: “Số mệnh là cái bẩm sinh sẵn có. Con người được trời ban cho tính và mệnh. Cả tính lẫn mệnh đều bẩm thụ cùng một lúc mà có, chứ không phải tính có trước, rồi sau đó mới có mệnh”1. Vương Sung nêu dẫn chứng Chu Văn Vương là bậc thánh nhân đã sớm bẩm thụ từ lúc con trong bụng mẹ. Theo Vương Sung, tính bẩm sinh ban đầu rất quan trọng, do đó, nếu bàn về số mệnh mà bỏ qua bẩm sinh, thì tướng - số không có nghĩa lý gì cả.

Ngoài ra, Vương Sung còn thể hiện đặc biệt tư tưởng về số mệnh, rằng, “con người khi nhận số mệnh của trời, nhận khí từ cha mẹ, thì đã có sẵn điều tốt, xấu”2, nghĩa là mệnh số tốt, xấu của con người sớm đã được định sẵn từ lúc bố, mẹ giao hợp. Tuy nhiên, nếu quá thiên về số mệnh như Vương Sung cũng chưa hẳn đã là khoa học. Cơ sở lý luận về số mệnh mà Vương Sung đưa ra cũng có thể đúng về “số”, nhưng lại không thấy kết hợp với “tướng” và “vận”, vì thế, cũng chỉ đúng một phần. Nhưng, dù sao, quan điểm trên đây của Vương Sung về số mệnh đã tạo ra cơ sở lý luận nguyên thủy cho việc đoán định số mệnh tốt, xấu, dựa vào thời gian mang thai; đồng thời, đưa ra sự gợi mở nhất định để người đời sau tiếp tục phát triển thuật suy đoán số mệnh dựa vào giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh.

Người đời xưa nhấn mạnh đến mối quan hệ tương sinh tương khắc giữa Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và 12 con vật cầm tinh (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), từ đó, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển của tướng - số đời sau. Người đời xưa quan niệm trong cơ thể con người có chứa khí Ngũ Hành, do đó, hành vi của con người đều chứa đựng Ngũ Thường. Ngũ Hành là vật chất cơ bản cấu thành mọi vật, theo triết học phương Đông cổ đại. Ngũ Thường là năm đức tính trong đạo đức phong kiến là “Nhân, Lễ, Nghĩa, Chí, Tín”. Như vậy, Ngũ Hành có sự tác động vào Ngũ Thường. Trời, đất, nước, lửa,... đều có sự tác động vào mỗi con người, liên quan đến cuộc sống của mỗi con người. Nhận thức này đã phần nào chứng minh khoa học về lý số.

Từ sau thời Đông Hán đến thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều, lòng tin vào tướng - số ngày càng lan rộng trong các ông đồ nho; rằng, điềm dữ lành trong cuộc đời con người đã được định sẵn từ lúc cha mẹ giao hợp để tạo thành bào thai. Điều này cũng có liên quan đến vì sao chủ xuất hiện trong ngày hôm đó.

Đời nhà Lương, trong “Tân luận”, Lưu Hiệp bàn về tướng mệnh như sau: “Mệnh khí sinh ra đã có, còn tướng thì phụ trợ cho mệnh mà thành; mệnh không thể hiện ra bên ngoài, còn tướng thì biểu hiện ra ngoài. Có mệnh ắt có tướng, có tướng ắt có mệnh, cả mệnh và tướng đều là bẩm thụ từ Trời, dựa vào nhau mà thành. Tướng mệnh của con người thể hiện sự thông minh, ngu ngốc, sang hèn, tốt xấu, chế định từ khí, kết thành bào thai. Tướng mệnh của mỗi người tùy thuộc vào chòm sao mà người đó cảm ứng. Sao tốt thì tướng mệnh tốt, sao xấu thì tướng mệnh xấu. Khi bắt đầu nhận khí, tướng mệnh đã được quy định, đến quỷ thần cũng không thay đổi được, bậc thánh nhân tài trí cũng không thể xoay chuyển”1. Đây cũng là điều tưởng tượng ra, tương ứng với một cái gì đó, chứ thực ra xác định vì sao nào chiếu vào mệnh nào là không thể có. Nhưng có điều thực là trong một đêm giao hợp của cha, mẹ, nếu gặp được một luồng gió mát lành thổi vào, hoặc gặp một luồng không khí trong lành của một đêm trăng thanh gió mát ập đến, thì đứa con sinh ra sẽ khỏe mạnh, thông minh, là kinh nghiệm mà những bậc tiền bối đã nói lại.

Đến đời nhà Đường, thuật tướng - số phát triển vượt bậc và tạo nên sự chuyển biến về chất. Sự chuyển biến này được đánh dấu bằng phương pháp suy đoán số mệnh tốt, xấu dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh với Âm Dương và Ngũ Hành. Lúc này, thuật chiêm tinh của Ấn Độ, Tây Vực cũng lần lượt du nhập vào Trung Quốc, góp phần thúc đẩy thuật tướng - số của Trung Quốc phát triển lên một giai đoạn mới. Từ những tài liệu ghi chép từ các đời Tống, Nguyên, ta có thể đoán rằng, phương pháp dựa vào lịch pháp và các vì sao để suy đoán số mệnh bắt đầu xuất hiện vào khoảng những năm từ 785 đến 805 (năm Trinh Nguyên đời Đường). Lúc này, thuật tướng số Trung Quốc phát triển mạnh. Nhiều cuốn sách phân tích về tướng - số ra đời. Tại kinh đô Tràng An có nhiều hiệu xem tướng - số xuất hiện. Nhiều nhà tướng - số tầm cỡ lúc này xuất hiện như Lý Hư Trung, Tăng Nhất Hành, Tang Đạo Mậu,... Xin nêu một nhân vật nổi bật về tướng - số đời nhà Đường là Lý Hư Trung. Lý Hư Trung tự là Thường Dung, người quê miền Ngụy Quận (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Vào khoảng năm Trinh Nguyên Đời Đường Đức Tông, Lý Hư Trung thi đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Ngự sử1. Ông rất say mê nghiên cứu Âm Dương Ngũ Hành, kết hợp với Thiên can, Địa chi của ngày, tháng năm sinh để suy đoán sự sang, hèn, tốt, xấu, họa, phúc của con người. Sách xưa nhận định sự xem tướng - số của Ông cho các hạng người là khá chính xác. Vì vậy, người đương thời đã suy tôn Ông là tổ sư của thuật xem tướng - số.

Phương pháp dựa vào Thiên Can - Địa Chi của giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh để dự đoán số mệnh của con người do Lý Hư Trung đề xuất đã được Từ Tử Bình (người sống vào cuối thời Ngũ Đại, đầu đời Tống) phát triển hoàn thiện hơn. Theo sử sách, Từ Tử Bình tên là Cư Dị, đã từng sống ẩn cư ở Hoa Sơn cùng với Ma Y Đạo Nhân Trần Đồ Nam, một bậc thầy xem tướng - số thời bấy giờ, để cùng nghiên cứu, tìm hiểu về thuật tướng - số. Có lẽ cống hiến lớn nhất của Từ Tử Bình trong thuật tướng - số là phát triển phương pháp suy đoán của Lý Hư Trung dựa vào Can - Chi, năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh thành phương pháp “Tứ trụ”, cùng lúc dựa vào năm sinh, tháng sinh, ngày sinh giờ sinh, nghĩa là lấy Thiên Can - Địa Chi của năm sinh làm trụ thứ nhất, Thiên Can - Địa Chi của tháng sinh làm trụ thứ hai, Thiên Can - Địa Chi của ngày sinh làm trụ thứ ba, Thiên Can - Địa Chi của giờ sinh làm trụ thứ tư, gọi là “Tứ trụ”. Mỗi trụ gồm hai chữ (năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh), tổng cộng 8 chữ, gọi là “Bát tự”. Sau đó, dựa vào Âm - Dương - Ngũ Hành ẩn chứa trong Thiên Can - Địa Chi, từ đó mà suy đoán ra số mệnh của mỗi người.

Sau Từ Tử Bình, những ghi chép về số mệnh của các nhà trí thức lý số đời Tống như Tô Thức (Tô Đông Pha), Vương Tích Chi, Thích Văn Doanh ngày càng nhiều hơn so với đời trước. Những ghi chép này đều xuất phát từ những kinh nghiệm thực tế để khẳng định số mệnh của con người là có thật.

Xét về phương pháp nghiên cứu tướng - số, bắt đầu từ đời Tống, phương pháp Tứ trụ do Từ Tử Bình phác thảo ra đã lan tỏa khắp nơi. Người này phổ biến cho người kia, rất nhiều người biết xem tướng - số. Lúc ấy, việc xem tướng - số không chỉ ở các nhà lý luận về tướng - số (lý số), mà đa số các nhà nho cũng rất tinh thông về thuật này, trong đó, phải kể đến Từ Đoan Thức. Có thể nói Ông là một học giả rất tinh thông về lý luận số mệnh. Chu Hy, nhà triết học nổi tiếng thời Nam Tống đã nhận xét về kết quả nghiên cứu lý luận số mệnh của Từ Đoan Thức: “Người đời dựa vào Can - Chi, Nạp Âm (Ngũ Hành) của năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh để đoán biết vận mệnh. Đại khái là cái cơ vi của vạn vật trong trời đất không vượt khỏi Âm Dương - Ngũ Hành; sự co giãn, tăng giảm, biến hóa của chúng vốn là khôn cùng và khôn lường, những đặc tính mà vạn vật được phú bẩm như giàu sang hay nghèo hèn, thông minh hay ngớ ngẩn, sáng suốt hay ngu muội,... đều không giống nhau. Từ Đoan Thức từng là nhà nho, nên Ông hiểu được học thuyết này và vận dụng nó để suy đoán được nhiều sự việc, âu cũng là lẽ đương nhiên. Các bậc quân tử trong khắp thiên hạ mà còn phải hỏi ở Từ Đoan Thức, đủ biết, sự giàu sang, vinh hiển vốn không phải do mong muốn mà có được, còn sự nghèo hèn, thấp kém cũng không phải do khéo léo mà tránh được”1. Nhưng, ở đây, cũng phải nói rằng, cả Lý Hư Trung, Từ Tử Bình, Từ Đoan Thức quá lệ thuộc vào tướng - số, mà các ông chưa chỉ ra được bên cạnh tướng - số, còn có “nhân định thắng thiên”.

Trong số các tác phẩm nổi tiếng về tướng - số đã được lưu truyền trong thời kỳ này, phải kể đến tác phẩm “Uyên Hải Tử Bình”2 do Từ Tử Thăng đời Tống biên soạn dựa trên những thành quả nghiên cứu về lý luận số mệnh của Từ Tử Bình. Tác phẩm này, cho đến nay vẫn còn phổ biến ở lục địa Trung Hoa, Hồng Công, Đài Loan,...

Có thể nói, từ đời Đường, đời Tống trở đi, thuật tướng - số Trung Quốc chính thức bước vào giai đoạn hưng thịnh và phát triển rộng rãi tới các đời sau. Người đời sau đọc sách tướng - số của người đời trước rồi viết bổ sung, cứ thế, cứ thế, số sách về thuật tướng - số ngày càng nhiều, có tới hàng vạn quyển, đọc không xuể.

Đến đời Nguyên, tuy thuộc tầng lớp quý tộc Mông Cổ, nhưng trong xã hội Trung Quốc thời kỳ này, phong tục xem tướng - số vẫn rất thịnh hành. Học giả Đào Tôn Nghị vào cuối đời Nguyên, đầu đời Minh có kể lại một câu chuyện: “Đời Nguyên có người thuộc gia đình giàu có, tính rất phóng khoáng, nhưng hầu hết các thầy tướng số khi xem số mệnh đều phán rằng, ông này chỉ sống đến 30 tuổi. Người nhà giàu nghe xong, biết mình không còn sống được bao lâu, nên đem hết tài sản trong nhà cứu tế cho người nghèo. Sau đó, tại một bến sông nọ đang có lúc sóng to gió lớn, người nhà giàu lại cứu một cô gái đang định lao mình vào dòng nước cuồn cuộn để tìm cái chết. Một năm sau, trong lần đi qua bến đò năm xưa, vừa may người nhà giàu gặp lại cô gái mà ông đã cứu lần trước. Cô gái kiên quyết mời ông về nhà để cùng chồng tạ ơn cứu mạng. Cô gái này lúc trước vốn bị chủ đuổi đi, nên muốn tự vẫn, nay cô đã lấy chồng. Không còn cách nào khác, người nhà giàu đành để 28 người cùng đi với mình qua đò trước, còn mình thì đến thăm nhà cô gái. Sau khi uống xong tách trà, người nhà giàu từ biệt chủ nhà để tiếp tục lên đường, thì nghe thấy bên đường xôn xao bàn tán, mới hay chiếc đò qua sông lúc này đã bị sóng gió đánh chìm, toàn bộ 28 người cùng đi đều thiệt mạng,...”1. Và như vậy, người nhà giàu lại sống sót. Qua chuyện này, có thể cho người ta thấy nếu làm điều thiện, thì có thể xoay chuyển được vận mệnh.

Đến đời Minh, thuật tướng số được phát triển khá rộng rãi, ở nấc thang cao hơn. Các tác phẩm viết về tướng - số mọc lên như nấm, như “Lộc mệnh biện” của Tống Liêm, “Trích thiên tủy nguyên chí” của Lưu Cơ, “Tử bình chân thuyên” của Thẩm Hiếu Chiêm, “Tam mệnh thông hội” của Vạn Dục Ngô, “Thần phong thông khảo mệnh lý chân tông” của Trương Thần Phong,...

Đến đời Thanh, thuật tướng - số vẫn được duy trì và phát triển trên cơ sở những tác phẩm phân tích về tướng số của các nhà lý số đời Đường, Tống, Minh. Thời kỳ này, trong xã hội, bất kỳ ai, khi gặp bất kỳ chuyện gì như hôn nhân, thi cử, mua bán, đi xa,... đều mời thầy đến xem tốt, xấu, chọn giờ, ngày, tháng, năm xuất hành. Các nhà lý số đời Thanh như Kỷ Vân, Du Việt,... ra sức tuyên truyền cho tướng - số, làm cho phong trào nghiên cứu mệnh lý lan tỏa khắp nơi, nhà nhà xem tướng, người người xem tướng. Các tác phẩm về lý số xuất hiện nhan nhản dưới triều Thanh, như “Mệnh lý ước ngôn”, “Trích thiên tủy tập yếu” của Trần Tố Am, “Trích thiên tủy xiển vi” của Nhậm Thiết Tiều,...

Sau đời Thanh, Trung Quốc bước vào thời Dân quốc. Nhiều cấp lãnh đạo giới chóp bu, nhất là Tưởng Giới Thạch cũng rất tin vào số mệnh. Trước khi đi đâu, làm việc gì lớn, Tưởng Giới Thạch đều cho mời thầy tướng - số có hạng đến xem. Thầy tướng - số bảo đi, thì Tưởng Giới Thạch đi, bảo không đi, thì Tưởng Giới Thạch không đi, bảo nên hành động, thì Tưởng Giới Thạch hành động, bảo không nên hành động, thì Tưởng Giới Thạch không hành động. Tuy nhiên, cũng đã xảy ra một số trường hợp thầy tướng - số bảo nên hành động, khi hành động, Tưởng Giới Thạch bị thất bại,...

Thời Dân quốc có Trần Quả Phu, cánh tay đắc lực của Tưởng Giới Thạch, chuyên trông coi việc Đảng. Phu rất giỏi tướng pháp. Một lần Trương Quế, đảng viên cao cấp của Quốc dân Đảng, được cử đi làm Tư lệnh tiếp viện, đến chào từ biệt Trần Quả Phu. Trông thấy Quế, Phu sửng sốt bảo: “Xin Ông lưu ý, khí sắc của Ông ám hãm lắm, phải cẩn thận đề phòng”. Quế nghe Phu nói chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua. Nhậm chức chừng hơn một tháng. Quế bị cách chức vì một kho đạn do quân khủng bố đốt nổ. Tuy đau xót, Quế tự an ủi: “Thôi cái nạn này là may rồi”. Bị cách chức, Quế cùng gia quyến trở lại quê nhà. Không ngờ, đang trên đường về quê, bất thình lình, máy bay Nhật xà xuống, bắn vào xe Quế đang ngồi. Xe lật nhào, con Quế chết, vợ bị thương, Quế cũng bị thương. Chuyện này đã được chép trong sách “Tướng mệnh khảo luận” của nhà tướng học Vũ Tài Lục.

Thời Dân quốc, tại Thượng Hải xuất hiện rất nhiều thuật sĩ lấy việc xem tướng - số làm kế mưu sinh, lấy việc viết sách về tướng - số làm trọng, trong đó, không ít người có học vấn cao như Viên Thụ San, Vi Thiên Lý,...

Thời hiện đại của Trung Quốc, tuy có giai đoạn tướng - số bị cấm, như thời Đại Cách mạng Văn hóa, cho là mê tín, dị đoan, nhưng dần dần sự xuất hiện trở lại của những tập tục mê tín ở các nơi, nhất là nông thôn Trung Quốc, làm cho các nhà tướng - số bị bỏ quên và bị vùi dập, bỗng được người ta tìm đến để xem vận mệnh, số mệnh, số phận, và như vậy, thầy tướng - số sau những năm, tháng phải “ngủ” trong giấc triền miên, bỗng được tôn sùng, tướng - số được phát triển trở lại, nhất là ở Hồng Công và Đài Loan. Ngày nay, ở Trung Quốc, tuy kinh tế, tài chính, khoa học và công nghệ phát triển, nhưng không ít doanh nhân, cán bộ, công chức, viên chức vẫn tin vào vận số, cho nên vấn đề tướng - số ngày càng có dấu hiệu phát triển và phổ biến. Những lần sang Trung Quốc, tôi thấy có một số hiệu bán sách tướng - số.

 

Tướng - số xuất hiện ở Việt Nam từ khi nào?

 

Qua nghiên cứu các sách, báo, thấy rằng, mầm mống ra đời của tướng - số ở Việt Nam là khá sớm. Trong sách “Tử vi với số phận con người” của tác giả Đoàn Thanh Bình (tr. 67) đã đưa ra dẫn chứng các nhà khảo cổ học, bảo tàng học và sử học đã phát hiện ra bản khắc trên chiếc rìu đá Bắc Sơn, có ghi lại được hình chòm sao Vũ Tiên (Hercule). Đây là một bằng chứng nói rõ cư dân Việt cổ vùng Bắc Sơn đã sớm có phát triển thiên văn, vào khoảng từ 4 đến 6 nghìn năm trước thời Hùng Vương. Đến thời Hùng Vương, thiên văn đã phát triển thêm một bước.

Người Bách Việt xưa tin ở mệnh trời tác động đến số mệnh con người rất sớm, cách đây khoảng trên dưới 2.000 năm, mặc dù lúc này khái niệm tướng - số chưa xuất hiện. Người Bách Việt xưa, khi họ phải chống đỡ với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của xã hội, của sự sống, thì nảy sinh tư tưởng tìm đến tín ngưỡng. Bên cạnh đó, thuật tướng - số của Trung Quốc du nhập vào, dần dần hình thành nên hệ thống tướng - số ở Việt Nam. “Đại Việt sử ký toàn thư” dẫn sách “Chu Dịch” nói rằng: “Có trời đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi”1. Đạo cương thường bởi đấy mà đặt vậy. Lý số cũng bởi đấy mà phát sinh. Đạo trời đất không thể ngoài cương thường.

Những tài liệu về trời đất linh thiêng, thần thánh, số mệnh con người và hoàn cảnh xã hội được chép đầu tiên trong sách “Lĩnh Nam chích quái”2. Ngô Sĩ Liên đem những chuyện này chép trong bộ sách “Đại Việt Sử ký toàn thư”.

- Đầu tiên là kỷ họ Hồng Bàng (Hồng Bàng Thị). “Truyện Họ Hồng Bàng” ghi lại sự tích Đế Minh, cháu ba đời của Viêm đế Thần Nông. Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Đế Nghi đi tuần về phía Nam, đến núi Ngũ Linh, lấy con gái bà Vụ Tiên. Họ sinh ra Lộc Tục, tức vua Kinh Dương Vương, mà nay vẫn còn đền thờ ở tỉnh Bắc Ninh. Lúc này, người ta bắt đầu cảm thấy sự đe dọa của thiên nhiên đối với con người, nên tin vào trời đất, thánh thần. Kinh Dương Vương lấy đức cảm hóa dân, rủ áo khoanh tay; dân thì cày ruộng ăn, đào giếng uống, sớm làm tối nghỉ, mọi việc diễn ra êm đềm, bốn phương phẳng lặng.

Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm).

Lạc Long Quân lên làm Vua, nối ngôi Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, con gái của Đế Lai. Họ sinh thành được trăm người con trai (tục truyền sinh ra trăm trứng), được xem là tổ của người Bách Việt. Một hôm, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khác nhau, khó lòng đoàn tụ. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép về Nam Hải). Phong con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi Vua”3. Kinh Dịch viết: “Khí trời đất giao hợp với nhau mà hóa muôn vật, đực cái hợp tinh với nhau mà sinh muôn vật”. Tất cả đều do mệnh trời4.

- Thời Hùng Vương, người ta coi trời đất linh thiêng lắm, chi phối số phận con người. Hùng Vương là con trai Lạc Long Quân, đóng đô ở khu vực đền Hùng hiện nay. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là nước Văn Lang, chia cả nước ra làm 15 bộ, trong đó có Bộ Giao chỉ. Vua đặt tướng văn, gọi là “lạc hầu”, tướng võ gọi là “lạc tướng” (hùng tướng); trăm quan gọi là “bố chính”, “thần bộc”; nữ lệ gọi là “xảo xứng” (nô tỳ); bề tôi gọi chung là “hồn”; con trai Vua gọi là “quan lang”; con gái Vua gọi là “mỵ nương”; đời đời cha truyền con nối gọi là “phụ đạo”. Vua các đời đều gọi là Hùng Vương, truyền được tất cả 18 đời. Thời ấy, dân sống ở ven rừng, xuống sông đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn tâu với Vua. Vua nói: “Giống sơn nam và giống thủy tộc có thù với nhau, thường gét nhau, cho nên hại nhau đó”1. Người dân nghe Vua nói, lấy mực xăm mình theo hình quỷ quái. Từ đó, dân không bị tại họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân cũng bắt đầu từ đấy. Hồi lập quốc, dân chưa dệt được vải để may quần áo, bèn lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, làm ra được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm; lấy gỗ làm nhà để trú thân và tránh hổ, sói; cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng; đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm; việc hôn nhân lấy cơm nếp để nhập phòng, cùng ăn, sau đó mới thành thân,...

Xin kẻ ra đây một số chuyện về thời Hùng Vương có liên quan đến mệnh trời, mệnh người thời ấy: Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng (hương) Phù Đổng có ông nhà giàu, sinh một con trai. Khi lên ba tuổi, ăn uống béo lớn, nhưng lại không biết nói cười. Vừa hay, lúc ấy có giặc đến xâm lấn. Vua sai thiên sứ  đi tìm người có thể đánh bại được giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói được, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói: Xin cho một thanh gươm, một con ngựa, thì vua không còn lo gì nữa. Thiên sứ về bẩm báo vua. Vua sai đem cho gươm và ngựa, đứa trẻ lập tức phi ngựa, vung gươm mà đi, quan quân theo sau, phá giặc ở chân núi Vũ Ninh (tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, bị chết rất nhiều. Những tên còn sống sót đều đầu hàng cả. Dẹp xong giặc giã, đứa trẻ phi ngựa bay lên trời đi hút vào các tầng mây. Thấy điềm lạ, vua sai sửa sang chỗ vườn nhà của đứa trẻ để lập miếu thờ. Đến đời vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương. Miếu thờ ở bên cạnh chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng. Người đời sau thường gọi là Phù Đổng Thiên Vương. Sự tích Phù Đổng Thiên Vương được chép trong “Lĩnh Nam chích quái”.

Sách “Lĩnh Nam chích quái” chép về đời Hùng Vương thứ ba sinh hạ được người con gái tên là Tiên Dung. Vào tuổi trăng tròn, dung mạo Tiên Dung đẹp như tiên giáng trần. Nàng có sở thích hay đi ngao du thiên hạ, đặc biệt thích đi chơi trên sông, trên biển.

Hồi đó, ở làng Chử Xá, cạnh con sông lớn, có một thanh niên làm nghề chài lưới tên là Chử Đồng Tử con ông Chử Vi Vân, nhà nghèo tới mức của cải sạch không, hai cha con chỉ mặc chung một chiếc khố. Trước khi mất, cha bảo con: “Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con”. Con không nỡ làm theo, vẫn dùng khố mà niệm bố. Từ đấy, Chử Đồng Tử ở truồng, đói rét đến khốn khổ. Hằng ngày, Chử Đồng Tử đứng ở bên sông, hễ thấy có con thuyền nào cặp bến, anh ta lại phải đứng ở dưới nước mà ăn xin. Một hôm, bất chợt, thuyền của Tiên Dung lướt tới. Theo sau Tiên Dung là kẻ hầu người hạ, chiêng trống, nhã nhạc vang lên tưng bừng. Chử Đồng Tử thấy vậy, sợ quá, bới cát thành lỗ, nằm ngay xuống đó, phủ cát lên mình. Tiên Dung dạo chơi trên bãi cát, cho vây màn tắm ngay trên chỗ cát mà Chử Đồng Tử đang nằm ở dưới. Nước từ trên người Tiên Dung tràn xuống, cát trôi đi, trơ ra cái thân trần của Chử Đồng Tử. Tiên Dung lấy làm ngạc nhiên, hoảng sợ. Sau trấn tĩnh lại, nhìn ra hóa là con trai. Nàng nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là do trời xui lên vậy”. Ngươi hãy dứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc, rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn mừng”. Mọi người cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có. Tiên Dung “ép” Chử Đồng Tử nên vợ nên chồng cùng mình. Chử Đồng Tử run sợ, không dám nhận lời với Tiên Dung, tủi thân vì mình là kẻ bần hàn, làm sao dám xứng danh lấy công chúa con vua, đẹp như tiên giáng trần. Tiên Dung đã quyết thì không thay đổi. Nàng nói: “Đây do trời chắp mối, sao cứ chối từ”. Vua cha biết tin, phản đối quyết liệt. Trước tình cảnh ấy, Tiên Dung không dám về, bèn cùng Chử Đồng Tử chọn nơi đất tốt, mở bến chợ, lập phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn, trên bến dưới thuyền. Phú thương nước ngoài đến buôn bán tấp nập. Phố xá đông vui hẳn lên. Sự kiện Tiên Dung và Chử Đồng Tử có thể nói do số phận được không?

Cuối thời Hùng Vương, Vua có người con gái là Mỵ Nương, người xinh đẹp, nết na, hiền thục. Vua nước Thục bên Trung Quốc, nghe tiếng, đến xin cầu hôn. Vua muốn gả. Nhưng cận thần đến can ngăn, rằng, họ muốn nhòm ngó nước ta, mượn việc hôn nhân làm cớ mà thôi. Nghe lời cận thần, Hùng Vương không gả Mỵ Nương cho Thục Vương. Thục Vương nghe vậy, đem lòng oán giận Hùng Vương, muốn đem quân đánh chiếm nước Văn Lang. Không gả con gái mình là Mỵ Nương cho Thục Vương, Hùng Vương cho tìm người đáng giá để gả, bảo các bề tôi rằng: “Đứa con gái này là giống tiên, người nào có đủ tài đức mới cho làm rể”1. Bấy giờ có hai người đến xin cầu hôn. Một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh. Vua nói rằng, ta có một người con gái, có thể gả cho cả hai người thế nào được. Hẹn đến ngày mai, vị nào đem đủ sính lễ đến trước thì ta gả cho. Hai người nhận lời rồi lạy tạ ra về. Hôm sau, Sơn Tinh đem châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng, đủ các thứ đến dâng. Vua y lời hẹn gả con gái cho. Sơn Tinh đón Mỵ Nương về ở ngọn núi cao Tản Viên. Thủy tinh cũng đem sính lễ đến sau, nhưng việc đã lỡ, tiếc quá, bèn trả thù tình địch bằng cách kéo mây làm mưa, dâng nước lên tràn ngập, đem loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Hồng (đoạn chảy qua huyện Từ Liêm) để chắn. Thủy Tinh dâng nước lên ở khúc sông khác để các loại thủy tộc đánh lên núi Tản Viên, nơi Sơn Tinh và Mỵ Nương chung tình. Sơn Tinh có phép thần thông biến hóa, gọi người Man đan tre làm rào để chắn nước, lấy nỏ bắn xuống sông, các loại thủy tộc trúng tên đều chạy trốn. Rút cục, không đánh được Sơn Tinh ở Tản Viên. Tục truyền rằng, Sơn Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau, đời đời thù nhau, mỗi năm mùa nước to thường vẫn đánh nhau. Núi Tản Viên là núi cao, sự linh thiêng rất là ứng nghiệm. Chuyện về Sơn Tinh - Thủy Tinh đã chép trong sách “Lĩnh Nam chích quái”.

- Sau thời Hùng Vương là thời An Dương Vương (Thục Phán, Thục Vương). Lúc này, nước Văn Lang đã đổi tên thành nước Âu Lạc. Thời này cũng xuất hiện nhiều chuyện lạ, có liên quan đến mệnh trời, mệnh người. An Dương Vương nhiều lần đem quân đến đánh Hùng Vương. Nhưng Hùng Vương binh hùng, tướng mạnh, Thục Vương cứ thua hoài. Thắng trận sinh kiêu căng, Hùng Vương nói: “Ta có thần giúp sức, nước Thục không sợ ư?”1. Rồi Hùng Vương chủ quan, không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi. Hùng Vương vẫn còn say mềm chưa tỉnh. Quân Thục đánh rát, Hùng Vương thua trận, thổ huyết, nhảy xuống giếng chết. Quân lĩnh quay giáo đầu hàng Thục Vương. Thục Vương cho đắp thành Việt Thường, rộng hơn nghìn trượng, hình xoáy trôn ốc, gọi là Loa Thành (còn gọi là thành Cổ Loa, thành Tư Long, thành Côn Lôn).

An Dương Vương, phía Tây thì dời sang Ba Thục, phía Nam thì diệt vua Hùng Vương, đóng đô ở Loa Thành, giữ nước Âu Lạc, nhờ được nỏ móng rùa, đánh lui quân Nhà Tần. Đánh thắng nhiều trận, sinh kiêu, quân Triệu Đà ở phương Bắc thừa cơ đến đánh, bờ cõi bị quân phương Bắc nhòm ngó. Nhưng, quân Triệu Đà đánh mãi vẫn không thắng nổi quân của An Dương Vương, bèn xin giảng hòa với An Dương Vương. Triệu Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu An Dương Vương. Trong những lần vào hầu An Dương Vương, Trọng Thủy gặp Mỵ Châu, con gái An Dương Vương, sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Trọng Thủy đem lòng yêu Mỵ Châu, rồi xin cầu hôn với Nàng. Vua bằng lòng gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Đêm đêm, Trọng Thủy tâm tình với Mỵ Châu, hỏi Mỵ Châu xem nước Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được. Mỵ Châu thật thà nói với Trọng Thủy là vua cha có nỏ thần, bắn một phát giết được trăm tên giặc. Trọng Thủy bảo Mỵ Châu cho xem nỏ thần, rồi ngầm lấy trộm nỏ thật, thay vào đó là nỏ giả. Nỏ thật được bí mật đem về Bắc. Trước khi về Bắc với lý do thăm cha mẹ, Trọng Thủy bảo Mỵ Châu: “Ân tình vợ chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không hòa nhau, kẻ Nam, người Bắc cách nhau, ta lại đến đây thì làm thế nào mà tìm thấy nhau”. Mỵ Châu nói: “Thiếp có cái nệm gấm nhồi lông ngỗng, thường mang theo mình, đi đến đâu thì rút lông ngỗng rắc ra lối đường rẽ để làm dấu”1. Có nỏ thần thật, Triệu Đà mang quân sang đánh nước Nam. Vua không biết là nỏ thật đã rơi vào tay Triệu Đà. Khi quân Triệu Đà đến đánh, Vua vẫn ung dung ngồi chơi cờ, nói rằng: “Triệu Đà không sợ nỏ thần của ta sao?”2. Quân Triệu Đà tiến sát đến nơi. Vua liền giương nỏ thần, thì không còn hiệu nghiệm, vì là nỏ giả, trong khi Triệu Đà lại có trong tay nỏ thật. Triệu Đà đánh rát. Vua thua chạy, đem theo Mỵ Châu cưỡi ngựa chạy về phương Nam. Trọng Thủy nhận ra dấu lông ngỗng đuổi theo. Khi chạy đến bờ biển, hết đường mà không có thuyền, gọi rùa vàng đến cứu. Rùa vàng nổi lên mặt nước, nói rằng, kẻ ngồi trên ngựa là giặc đấy, sao không giết đi. Vua rút thanh gươm muốn chém Mỵ Châu. Mỵ Châu khấn rằng: “Trung Tín chọn tiết, bị người đánh lừa, xin chết hóa thành châu ngọc để rửa thù nhục này”. Vua chém Mỵ Châu. Máu của Mỵ Châu chảy trên mặt nước, loài trai nuốt vào bụng hóa làm hạt minh châu, gọi là ngọc trai.

Chuyện nỏ thần thể hiện sự chủ quan trong phòng thủ đất nước của vua An Dương Vương đối với kẻ thù xâm lược truyền kiếp phương Bắc. Cả An Dương Vương và Triệu Đà đều là người phương Bắc. Người phương Bắc và người phương Bắc đánh nhau để tranh nhau nước Nam, âu cũng là chuyện hiếm có trong lịch sử, điều đó nói lên bất cứ thế lực nào ở phương Bắc cũng đều nhòm ngó nước Nam. Vì vậy, nước Nam phải hết sức đề phòng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Khi không chống đỡ nổi, thường đổ cho mệnh trời. Đó là tư duy của người đời xưa.

- Đến thời Trưng Vương dòng dõi Hùng Vương, đàn bà rất dũng cảm, tin mệnh trời. Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em có tiếng mưu lược, tài trí, dũng cảm. Hai Bà căm giận chính sự phiền hà của thái thú Tô Định từ phương Bắc sang xâm lược Việt Nam, liền kêu gọi quân dân trong các quận, huyện nổi dậy chống Tô Định, lấy được 65 thành trì, thu lại hết đất cũ Nam Việt, cũng là bậc hào kiệt trong giới nữ. “Song, vì trời không giúp họ Lạc, nên quân nhà Hán sang lấn”3. Có lẽ do khí thiêng sông núi, do truyền thống bất khuất và tinh thần thượng võ của dân tộc đã sinh ra hai vị nữ anh hùng kiệt xuất là bà Trưng Trắc và Trưng Nhị và hàng chục nữ tướng tài ba, trong đó có bà Lê Chân, Nữ tướng miền biển, bà Đàm Ngọc Nga, Tiền đạo tả tướng quân, bà Lê Ngọc Trinh, Đại tướng,..., tất cả có tới 20 nữ tướng giỏi trong thời Hai Bà Trưng.

- Thời Triệu Việt Vương, người dân rất tin ở trời đất. Khi không gặp mưa thuận gió hòa, người ta thường thắp hương cầu đảo, khấn vái trời đất; còn khi gặp nạn xâm lược từ phương Bắc, thì dốc lòng đánh đuổi. Nhưng đôi khi cũng có lúc sinh kiêu căng, vì “cậy có móng rồng”, dẫn đến nước mất, nhà tan. Điềm lành cũng có ích gì đâu.

- Thời Mai Hắc Đế, rồi đến Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương), vấn đề tướng - số cũng được đặt ra. Người dân tin vào đạo Trời, giúp người thuận theo.

- Thời Ngô Quyền, người ta sùng bái tướng - số. Sử chép rằng, “Vua khi mới sinh có điềm ánh sáng khắp nhà, hình dạng khác thường, ở lưng có ba cái nốt ruồi, người xem tướng cho là lạ, bảo rằng, có thể làm nên chúa một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Đến khi lớn lên, vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, đi thong thả như cọp, có trí dũng, sức có thể cầm vạc giơ lên. Làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ. Đình nghệ gả con gái cho, cho làm Quyền quân Ái Châu. Đến đây, giết Kiều Công Tiễn, tự lập làm Vua, đóng đô ở Loa Thành”1. Ngô Quyền là một ông vua vừa tin vào trí, sức của mình, vừa tin vào mệnh trời. Sử thần Lê Văn Hưu bàn: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quan mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang lại nữa. Có thể bảo là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu, mà chính thống của nước Việt ta Ngô hầu đã nối lại được”2.

- Thời Đinh Bộ Lĩnh, đạo Phật được tôn sùng, vấn đề tướng - số được coi trọng. Nhiều ông thầy tướng - số xuất hiện trên các đường phố Tràng An. Người ta cũng hay nói nhiều đến Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh là con trai ông Đinh Công Trứ, Thứ sử Hoan Châu1 và bà người họ Đàm. Đinh Bộ Lĩnh có công dẹp loạn 12 sứ quân, tự lập làm Đế, ở ngôi 12 năm, thường gọi là vua Đinh Tiên Hoàng. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh được người mẹ họ Đàm chăm sóc hết sức chu đáo. Bà mẹ họ Đàm và gia thuộc vào sống ở động, thờ sơn thần, sinh ra Đinh Bộ Lĩnh. Ông thông minh hơn người, dũng lược nhất đời. Lúc còn nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh cùng với lũ trẻ chăn trâu ở ngoài đồng. Lũ trẻ biết tài năng của mình không bằng Đinh Bộ Lĩnh, cùng nhau tôn Đinh Bộ Lĩnh làm trưởng. Mỗi khi chơi đùa, bọn chúng khoanh tay làm kiệu để rước Đinh Bộ Lĩnh, “quân lính” hộ tống hai bên, lấy bông lau làm cờ hiệu. Đinh Bộ Lĩnh ngồi “kiệu” uy phong lẫm liệt như một bậc thiên tử. Bà mẹ họ Đàm thấy thế mừng lắm, liền mổ lợn khao bọn trẻ. Các bậc phụ lão trông thấy thế, bảo nhau rằng: “Đứa trẻ này khí độ như thế, tất sẽ làm nên việc, bọn chúng ta nếu không về theo, ngày sau hối không kịp”2. Bèn đem con em đến theo, rồi tôn làm trưởng. Lớn lên, Đinh Bộ Lĩnh đánh nhau với 12 sứ quân, có lần bị thua, khi qua cầu Đàm Gia Loan3, cầu gãy, Đinh Bộ Lĩnh và quân lính bị sa xuống sông. Người chú của Đinh Bộ Lĩnh chỉ huy một sứ quân, có mối thâm thù với người cháu, thấy Đinh Bộ Lĩnh đang chới với dưới sông, định lao mũi giáo xuống đâm, vừa lúc đó, có hai con rồng vàng nhô lên che đỡ cho Đinh Bộ Lĩnh. Người chú sợ quá, lùi lại. Đinh Bộ Lĩnh thu nhặt quân còn sót lại đánh. Người chú phải hàng. Từ đấy, ai cũng sợ phục, đi đến đâu đánh thắng đến đó, thế như chẻ tre, sử sách gọi là Vạn Thắng Vương.

Sau khi dẹp xong 12 sứ quân, năm 968 (Mậu Thìn), Đinh Bộ Lĩnh nên ngôi Hoàng đế, bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế; đặt tên nước là Đại Cồ Việt, dời kinh về động Hoa Lư, xây dựng kinh đô mới, làm cung điện, đắp thành đào hào, đặt nghi lễ. Bà mẹ họ Đàm (mẹ của Đinh Bộ Lĩnh) được tôn là Hoàng Thái hậu. “Vua muốn lấy uy để chế ngự thiên hạ, rồi đặt vạc lớn ở sân Triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng, người nào trái phép sẽ phải chịu tội bỏ vạc nấu hay cho hổ ăn. Mọi người sợ phục, không ai dám trái”4.

Hạn chế lớn nhất của Đinh Bộ Lĩnh là một ông vua không có học vấn,  thuộc loại võ biền, mọi việc đều làm theo ý muốn chủ quan của mình. Điều tai hại là lập tới 5 bà hoàng hậu ngang nhau, gây rối loạn trong cung, tranh giành nhau quyền lực. Đây cũng là một điềm báo trước sự sớm suy vong của Triều Đinh. Rút cục, Đinh Tiên Hoàng bị tên quan trong Triều là Đỗ Thích giết chết vào một đêm Vua vui với yến tiệc, say nằm ở ngay sân cung đình. Nhưng sau khi Đỗ Thích giết chết Đinh Tiên Hoàng, thì viên quan Định quốc công Nguyễn Bặc bắt Đỗ Thích và giết luôn. Trước đây, Đỗ Thích nằm ở trên cầu, nằm mơ chợt thấy sao sa vào mồm, cho là điềm tốt, mới manh tâm giết chết Đinh Tiên Hoàng, rồi giết luôn cả con Đinh Tiên Hoàng là Nam Việt Vương Đinh Liễn để hòng tước đoạt ngôi vua. Nhưng số phận trớ trêu, Đỗ Thích cũng là một tên quan võ biền, không biết xem tướng - số cho mình, nên chỉ dựa vào “sao sa vào mồm” mà cho rằng, mình sắp lên ngôi thiên tử, nên mới giết Vua để lên ngôi vua. Kết cục thì Đỗ Thích vừa mang tội giết Vua, vừa bị chính Nguyễn Bặc giết. Số là sau khi giết chết hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, cung cấm bị phong tỏa, quân Triều đình lùng bắt hung thủ rất ngặt. Đỗ Thích sợ quá, trốn ở máng nước trong cung. Qua ba ngày, khát nước, gặp trời mưa lấy tay hứng nước để uống. Cung nữ trông thấy liền tâu với Nguyễn Bặc. “Bặc sai người bắt đem chém, đập nát xương và băm thịt ra từng mảnh, chia cho người trong nước ăn, ai cũng tranh nhau ăn”1 Than ôi! Số phận của con người là thế đấy! Cho nên mới có câu: “Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

Trước kia, khi Đinh Bộ Lĩnh còn hàn vi, thường đánh cá ở sông Giao Thủy, cất lưới được viên ngọc khuê quý, viên ngọc chạm phải đầu thuyền đứt mất góc. Đêm ấy, Đinh Bộ Lĩnh ngủ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc trong giỏ cá. Đêm tối, ánh hào quang của viên ngọc ở trong giỏ phát ra, mọi người lấy làm lạ. Một nhà sư chùa xem ngọc, thở dài nói: “Anh ngày sau phú quý, không biết thế nào mà nói được, chỉ tiếc rằng, phúc không được lâu thôi”2.

- Thời vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn), vấn đề tướng - số càng phát triển sau cái chết của Đinh Tiên Hoàng, Đinh Liễn và của Đỗ Thích. Lúc bấy giờ là năm 974 (năm Thái Bình thứ 5), trong dân gian truyền tụng câu sấm: “Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh. Cạnh đầu đa hoành tử; đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng Đại vương; thập ác vô nhất thiện; thập bát tử đăng tiên; kế đô nhị thập thiên”1.

(Đỗ Thích giết hai Đinh; Nhà Lê nổi thánh minh; Tranh nhau nhiều kẻ chết; Đường sá người vắng tanh; Mười hai xưng Đại vương; Toàn ác không một thiện; Thập bát tử lên tiên; Kể hai chục ngày liền). Người ta cho là số trời đã định.

Lê Đại Hành làm quan Nhà Đinh đến chức Thập đạo tướng quân (Tổng chỉ huy mười cánh quân). Quân Tống xâm lược, Lê Hoàn đem quân ra chống cự, rồi thay Nhà Đinh, lên làm Vua, ở ngôi 24 năm, thọ 63 tuổi, băng ở điện Trường Xuân. Khi bà Đặng Thị mới có thai với chồng tên là Mịch, chiêm bao thấy trong bụng nở hoa sen, một bông hoa kết thành hạt, không hiểu chuyện gì. Đến năm 941 (Tân Sửu), Lê Hoàn sinh ra đúng vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Đặng Thị thấy tướng mạo khác thường, bảo người rằng, đứa bé này lớn lên sợ ta không kịp hưởng lộc của nó”. Quả nhiên, được vài năm thì Bà mất, liền sau ông Mịch cũng mất, trơ trọi một mình Lê Hoàn, sống cực khổ trăm chiều. Có một viên quan họ Lê xem tướng rất giỏi, trông thấy tướng mạo Lê Hoàn, cho rằng, tư cách đứa trẻ này không thể xem thường. Lại thấy người cùng họ, nhận đem về nuôi, nhận làm bố nuôi, cho ăn học tử tế, không khác gì con đẻ. Từng gặp mùa đông trời rét, Lê Hoàn nằm ngủ bên cối xay. Đêm ấy, có ánh sáng lạ đầy nhà. Bố nuôi lẳng lặng đến xem, thì thấy một con rồng ấp lên trên người Lê Hoàn. Từ đấy, bố nuôi càng quý trọng thêm. Là một người trí dũng song toàn, Lê Hoàn đánh đâu thắng đấy, cuối cùng trở thành vua Lê Đại Hành, lập ra Nhà Tiền Lê, lừng danh thiên hạ. Bình luận rằng, nếu như viên quan họ Lê không biết xem tướng, mang về nuôi thì số phận Lê Hoàn không biết sẽ ra sao. Âu cũng là số phận. Khi số đã cao quý, thì dù thuở hàn vi có gian lao, lận đận thế nào đi chăng nữa, rút cục vẫn vượt qua mà ngoi lên ngôi thiên tử.

Thời vua Lê Đại Hành xuất hiện nhiều truyền thuyết, làm người ta nủa tin, nửa ngờ. Truyện về Khuông Việt thái sư Ngô Chân Lưu nói về các vị thần. Có lần Ngô Chân Lưu đi chơi Vệ Linh sơn. Mến thích phong cảnh ngoạn mục nơi đây, nhà sư vào ở trong am để ở. Một hôm, vào lúc canh ba, nhà sư mộng thấy có vị thần đeo đai vàng, cưỡi ngựa sắt, tay trái cầm cây thương vàng, tay phải cầm thanh bảo kiếm, theo sau tới hơn mười người, diện mạo đáng sợ, tới mà nói: “Ta là Tỳ Sa Môn Đại Vương, kẻ theo sau đều là thần Dạ Thoa. Thiên đế có sách sai ta tới Bắc quốc để bảo hộ hạ dân ở đó. Ta vốn có duyên với ngươi, cho nên tới báo để ngươi biết”1. Thái sư Ngô Chân Lưu kinh hoàng tỉnh dậy, nghe thấy trong núi có tiếng thét, trong lòng sợ hãi, bèn đi vào núi, thấy một cây lớn có mây lành vây quanh, bèn sai thợ tới chặt để tạc tượng thần như trong mộng, rồi lập đền thờ, hương lửa cúng vái. Năm Thiên phúc thứ nhất, giặc Tống vào ăn cướp nước ta. Khi quân Tống vào ngôi đền đó, trông thấy bức tượng thần trừng trừng nhìn chúng, chúng sợ, bèn lui quân về Đại Giang. Gặp lúc sóng to gió lớn, giao long nổi lên mặt nước, quân giặc tan vỡ, chết rất nhiều. Nhà Vua cảm sự anh linh của thần, cho xây thêm miếu võ, phong làm Sóc Thiên Vương để trấn giữ phương Bắc. Có người cho rằng, tại nơi đây, trước đó, Phù Đổng Thiên Vương sau khi dẹp được giặc, cưỡi ngựa sắt tới cây đa núi Vệ Linh thì lên trời, chỉ để lại một cái áo. Tới nay, người đời gọi cây đa này là “cây thay áo”. Mỗi khi thờ cúng, chỉ dùng những đồ chay tịnh. Tới Triều Lý, để tiện thờ cúng, mới xây đền vũ ở Tây Hồ (Phủ Tây Hồ) để trấn giặc phương Bắc thường hay nhòm ngó, xâm lược nước Đại Cồ Việt.

Dòng dõi vua Lê Đại Hành không có hậu. Có người nói rằng, mồ mả tổ tiên ông cha bị động. Quả nhiên, sau khi vua cha Lê Đại Hành băng hà, các con là Lê Long Việt (Trung Tôn Hoàng Đế), Lê Đông Thành (Đông Thành Vương), Lê Trung Quốc (Trung Quốc Vương) tranh nhau lên ngôi. Cuối cùng thì Lê Long Việt giành được ngôi Vua. Nhưng Vua chỉ ở ngôi được ba thì bị người em ruột là Lê Long Đĩnh (Lê Chí Trung) giết chết, thọ 23 tuổi. Sau khi giết chết người anh ruột của mình là Lê Long Việt, Lê Long Đĩnh lên ngôi Vua, nhưng cũng chỉ ở ngôi được 4 năm, thọ 24 tuổi. Lê Long Đĩnh là một ông vua thất đức, dâm đãng đến tàn bạo, cho nên mới gọi là “vua Lê Ngọa Triều” (Nhà Vua có bệnh trĩ, do say đắm tửu sắc mà phát ra, phải nằm mà coi chầu). Mỗi khi ra chầu, sai bọn khôi hài hầu hai bên, Vua có nói câu gì thì bọn khôi hài pha trò cười, át cả lời tâu của quan chấp chính. Vua làm nhiều việc càn rỡ, lập tới 4 hoàng hậu, gây rối loạn triều chính. Vua có tính thích giết người, kể cả những người thân, giết vua anh, cướp ngôi. Những người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt để cho lửa cháy gần chết; hoặc sai kép hát người nước Tống tên là Liêu Thủ Tâm lấy dao xẻo từng miếng thịt người mà Vua muốn giết, để cho không được chết ngay. Người ấy đau đớn kêu gào thì Liêu Thủ Tâm nói đùa rằng: Nó không quen chịu chết. Vua cả cười. Đi đánh dẹp, mỗi khi bắt được kẻ thù thì giải đến bờ sông, khi nước triều rút, sai người làm lao, đẩy người tù xuống, dồn cả vào trong lao, đến khi nước triều lên thì ngập nước mà chết hết; hoặc bắt người trèo lên ngọn, rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi xuống chết. Vua thân đến xem, lấy làm thích lắm. Có lần Vua đi đến sông Ninh1, sông có nhiều rắn, Vua sai trói người vào mạn thuyền, đi lại giữa dòng, muốn cho rắn cắn chết. Vua từng bắt nhà sư Quách Ngang ngồi xuống, rồi róc mía ở trên đầu nhà sư, giả lỡ tay, lưỡi dao trượt xuống đầu nhà sư cho chảy máu, rồi cả cười, có vẻ hứng thú. Ngọa Triều không chỉ học đòi cách giết người tàn bạo, dã man của vua Kiệt Nhà Hạ, vua Trụ Nhà Thương, mà còn oán vua cha là Lê Đại Hành không lập mình làm thái tử, không cho mình làm vua, đánh đập dã man người Man để họ kêu khóc mà phạm đến tên húy của vua cha, lấy làm thích, như thế còn tệ hơn nữa2. Có người nói Lê Long Đĩnh (Ngọa Triều) là con ma cà rồng hiện hình người, ăn thịt người, đội lốt làm vua, làm cho người nước Nam ta một thời phải chịu cảnh nhục nhã, ê chề. Than ôi! Vận nước!

- Thời Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), vấn đề tín ngưỡng rất được tôn sùng. Thành Thăng Long và các nơi khác trong cả nước xuất hiện nhiều thầy tướng - số giỏi. Trong Kinh thành Thăng Long lúc ấy, người ta thường bàn đến một người, đó là Lý Công Uẩn. Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp1, Bắc Ninh. Mẹ người họ Phạm, thường đi lễ Phật ở chùa Tiên Sơn2. Chuyện kể rằng, có lần, đang trên đường lên chùa, Bà gặp một vị thần và quan hệ với vị thần đó, rồi có bầu, sinh ra Lý Công Uẩn. (sau này lên làm Vua lấy niên hiệu là Lý Thái Tổ). Vua sinh ngày 12, tháng Hai, năm Giáp Tuất (năm 974). Hồi nhỏ, Lý Công Uẩn thường theo mẹ lên chùa lễ Phật, tu hành ngay tại chùa. Lớn lên làm quan Nhà Lê, được thăng dần lên chức Điện tiền chỉ huy sứ3. Đến khi Lê Ngọa Triều chết, được sự ủng hộ của các quan trong Triều, Lý Công Uẩn tự xưng Vương, quyết định rời Kinh đô từ Hoa Lư (còn gọi là thành Trường Yên, Tràng An), Ninh Bình, về đất Thăng Long, gọi là Kinh đô Thăng Long (Thăng Long thành), vì cho đây là đất “có thế rồng cuộn hổ ngồi”, ở giữa Nam - Bắc - Đông - Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả”4. Các quan trong Triều nghe Vua nói, đều thấy hợp lý, cho nên hoàn toàn ủng hộ Vua di dời Kinh đô về Thăng Long. Khi thuyền của Nhà Vua đỗ dưới thành Đại La, tự nhiên có rồng vàng hiện ra, bay trên thuyền, vì thế mới gọi là thành Thăng Long (thành Rồng Bay). Nhà Vua ở ngôi được 18 năm, thọ 55 tuổi. “Vua ứng mệnh trời thuận lòng người, nhân thì mở vận, là người khoan từ, nhân thứ, tính mật ôn nhã, có lượng đế vương”5. Nhà Vua tôn sùng đạo Phật, tin vào mệnh trời. Khi Lý Công Uẩn lên 3 tuổi, bà mẹ dẫn đến nhà Lý Khánh Văn. Lý Khánh Văn trông tướng mạo Lý Công Uẩn khôi ngô tuấn tú, liền nhận làm con nuôi. Tuổi nhỏ, đến học ở chùa Lục Tổ6. Nhìn Lý Công Uẩn, nhà sư Vạn Hạnh, một bậc thầy tướng - số thời đó, nói: “Đứa trẻ này không phải là người thường, sau này lớn lên tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn, làm vua giỏi trong thiên hạ”7. Trước đấy, ở viện Cảm Tuyền, chùa Ứng Thiên Tâm Châu, Cổ Pháp, có con chó đẻ con sắc trắng, đốm đen, hình thành ra hai chữ “thiên tử”. Các nhà tướng - số thời đó nói đây là điềm trời chỉ người sinh năm Tuất sẽ làm thiên tử. Quả nhiên ứng nghiệm. Lý Thái Tổ lên ngôi, cho xây nhiều chùa, bổ nhiệm hơn một nghìn nhà sư. Trong nước chỗ nào cũng có chùa. Có người thời ấy nói Trời Phật đã phủ hộ cho Vua, nên cơ nghiệp Nhà Lý mới phất lên nhanh đến như vậy, tồn tại được nhiều đời, có hậu.

Có lần, Nhà Vua thân đi đánh giặc ở Châu Diễn. Đánh xong, trên đường về, đột nhiên trời đất tối sầm, gió to nổi lên, sấm dữ ầm ầm, làm kinh thiên động địa. Thấy điềm chẳng lành, Vua đốt hương rì rầm khấn Trời Phật:

“Tôi là kẻ ít đức, lạm ở trên nhân dân, ngơm ngớp lo sợ, như sắp sa xuống vực sâu, không dám cậy quân mạnh mà đi đánh dẹp càn bậy, chỉ vì người Châu Diễn không theo giáo hóa, ngu tối hung bạo làm càn, tàn ngược nhân dân, tội ác nhiều quá, nay không thể không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc có kẻ trung hiếu bị chết oan, hoặc có kẻ hiền lương bị giết lầm, đến nỗi hoàng thiên nổi giận, để tỏ lầm lỗi, thì tùy gặp tổn hại cũng không phàn nàn gì; đến như sáu quân thì tội còn có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét”1. Vua vừa khấn xong thì gió sấm đều yên lặng. Ứng nghiệm.

Trong chuồng ngựa của Vua, có con ngựa trắng rất kỳ lạ, thể hiện mối khi xa giá của Vua sắp đi, nó lại hí lên rất to. Vua đặt tên là Bạch Long thần mã.

Người nối ngôi Lý Thái Tổ là Lý Thái Tông, húy là Phật Mã, lại còn có tên là Lý Đức Chính. Lý Thái Tông rất tin vào mệnh trời. Vua sinh ngày 26, tháng sáu, năm Canh Tý (1000). Khi Vua mới sinh, có con trâu của nhà dân, tự nhiên thay sừng khác. Người có con trâu đó cho là điềm không lành, lấy làm lo ngại. Có thầy giỏi tướng - số, chiêm tinh nói rằng, đó là cái điềm đổi mới thôi, không ảnh hưởng gì đâu. Người ấy mới hết lo. Vua có 7 cái nốt ruồi sau gáy, có người gọi là “thất tinh”2. Khi còn nhỏ, cùng trẻ con chơi đùa, có thể sai bảo được chúng, bắt chúng đi hầu hai bên, y như một bậc thiên tử. Lý Thái Tổ thấy vậy, rất hài lòng, nói: “Con nhà tướng nên bắt chước việc binh lính, dùng gì nghi vệ theo hầu”. Lý Thái Tông trả lời: “Nghi vệ theo hầu có xa gì con nhà làm tướng? Nếu xa thì sao ngôi vua không ở họ Đinh mãi, mà lại sang họ Lê, do ở mệnh trời thôi”1. Lý Thái Tổ giật mình trước khẩu khí của con mình, từ đấy, càng yêu quý hơn. Có lần Lý Thái Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành. Đại quân vượt biển, đến núi Long Tỵ, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Trên đường chiến thắng trở về. Đêm doanh trại có ánh sáng khắp trong quân. Lý Thái Tông kinh ngạc, dậy xem, thấy rồng vàng hiện ở mắc áo. “Các việc ấy đều là mệnh trời, đến đây đều thấy phù hợp cả. Vua tính trời nhân từ trí tuệ và đĩnh ngộ, thông hiểu đại lược văn võ; còn các nghề lễ nhạc, ngự xạ, thư số thì không nghề gì là không tinh thông”2.

Thời vua Lý Thái Tông, người ta rất tin vào hình tượng con rồng và long mạch. Chuyện kể rằng, có lần rồng hiện ở nền cũ điện Càn Nguyên. Vua bảo các quan hầu: “Trẫm phá điện ấy, san phẳng nền rồi, mà rồng thần còn hiện, hay chỗ ấy là đức lớn dấy nghiệp ở chính giữa trời đất chăng”3. Bèn sai quan quân, theo quy mô rộng hơn, ngắm lại phương hướng mà làm lại, đổi tên là điện Thiên An. Lại còn cho rằng, có cả người thần xuất hiện. “Có dấu của người thần hiện ở chùa Thắng Nghiêm”4.

Đến đời vua Lý Thánh Tông5, vấn đề tướng - số, mệnh trời, liên quan đến cái thiện, cái ác, được xem như “cứu cánh” của cả vua lẫn quan, dân. Vua Lý Thánh Tông, húy là Nhật Tôn. Mẹ là Thái hậu Kim Thiên Mai. Một hôm, Bà nằm chiêm bao, thấy Mặt Trăng chui vào bụng, thế rồi có mang. Ngày 25, tháng hai, năm Quý Hợi (1023), Lý Nhật Tôn ra đời. Ông ở ngôi vua được 17 năm, thọ 50 tuổi. Lý Thánh Tông là một ông vua nhân từ, rất thương dân, tôn sùng đạo Phật, coi trọng nghề nông, thương kẻ bị hình, vỗ về người xa, an ủi người gần, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, có thể gọi là một ông vua anh minh, phúc đức. Mùa đông năm 1055, trời rét lắm. Nhìn dòng tộc, các quan trong Triều, rồi Hoàng hậu, vương phi, cung nữ đều mặc áo ấm, khăn trùm kín đầu. Thấy vậy, Vua tần ngần, mắt nhìn xa xăm, nói với các quan rằng: “Trẫm ở trong cung, nào lò sưởi ngự, nào áo lót cầu, còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không đáng tội, Trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai lần phát cơm”1.

Sống nhân hậu, vậy mà đến năm 40 tuổi, Vua vẫn chưa có con trai nối dõi tông đường. Vua buồn lắm. Năm 1063 (Quý Mão), có nhà tướng - số tâu với Vua, rằng, người sinh năm Quý Hợi, cầu tự vào năm Quý Mão, có thể có con trai. Nghe vậy, Vua làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa. Chuyện kể rằng, Vua cúng khấu cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, mới đi chơi khắp các chùa. Xe Vua đi đến đâu, con trai, con gái đổ xô đến xem không ngớt. Duy chỉ có một người con gái hái dâu cứ đứng tựa vào bụi cỏ lan. Vua trông thấy, cho đưa vào cung, được Vua yêu, phong làm Ỷ Lan phu nhân (Ỷ Lan Hoàng thái phi). Quả nhiên, sau lễ cầu tự và chung tình, Ỷ Lan phu nhân có mang, ngày 25, tháng giêng, năm Bính Ngọ (1066), sinh thái tử Càn Đức, tức vua Trần Nhân Tông. Vua mừng lắm, ngay ngày hôm sau, lập làm Hoàng thái tử, đại xá cả nước; phong Ỷ Lan phu nhân làm Thần phi. Khi vua Lý Thánh Tông mất, Thái tử Càn Đức lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông, tôn mẹ làm Hoàng Thái Hậu Linh Nhân (tức bà Ỷ Lan Hoàng thái phi). Vua ở ngôi được 56 năm, thọ 63 tuổi. Vua trán cao, mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, có thần giúp đỡ, người ứng theo, tinh thông kinh sử, rất thích người nói thẳng.

Như vậy, nhờ có cầu tự ở các chùa linh thiêng, trời xui đất khiến, vua Lý Thánh Tông mới gặp được bà Ỷ Lan và mới có con trai kế nghiệp ngai vàng là vua Lý Nhân Tông. Điều này nói lên việc cầu Trời Phật là sẽ mang lại nhiều điều tốt lành.

Có lần vua Lý Nhân Tông đi chơi thuyền ở hồ Dâm Đàm (hồ Tây bây giờ). Chợt có mây mù nổi lên. Trong đám mây mù nghe có tiếng mái chèo rào rào. Khi mây mù tan, một con hổ hiện lên trong thuyền. Mọi người sợ tái mặt. Người đánh cá là Mục Thận quăng cái lưới trùm lên con hổ, nhìn ra, chẳng phải con hổ, mà là Thái sư1 Lê Văn Thịnh, một người có phép thuật, âm mưu làm phản, định giết Vua để cướp ngôi. Vua nghĩ Lê Văn Thịnh là quan đại thần, có công lao, không nỡ giết chết, mà đày lên giam tại một trại giam ở khu vực sông Thao. Chuyện này đã kể trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, mức độ chính xác đến đâu, chẳng ai dám khẳng định.

Cũng như vua Lý Thánh Tông, vua Lý Nhân Tông tuổi đã nhiều mà vẫn chưa có con trai. Vua xuống chiếu chọn con người tôn thất để lập con nối. Em Vua là Sùng Hiền hầu (chưa rõ tên) cũng chưa có con trai. May mắn làm sao, vào một ngày của năm Nhâm Thìn (1112), có một nhà sư tên là Từ Đạo Hạnh đến chơi nhà Sùng Hiền hầu. Sùng Hiền hầu nói với Từ Đạo Hạnh về việc cầu tự. Tự Đạo Hạnh nói: “Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì phải cho tôi biết trước”. Từ Đạo Hạnh cúng sơn thần, cầu tự cho Sùng Hiền hầu. Vào năm Bính Thân (1116), Từ Đạo Hạnh hóa thân trút xác ở chùa núi Thạch Thất (chùa Thầy ngày nay. Chùa này thờ Từ Đạo Hạnh). Từ Đạo Hạnh đến chơi núi ấy. Thạch Thất có núi Phật Tích. Từ Đạo Hạnh đến chơi núi ấy, thấy tảng đá trong hang núi có vết chân người, liền lấy chân ướm vào, vừa vặn. Phu nhân Sùng Hiền hầu có mang, trở dạ mãi không đẻ. Sùng Hiền hầu nhớ lời Từ Đạo Hạnh dặn trước, liền cho người đến báo cho Từ Đạo Hạnh biết. Nghe tin ấy, Từ Đạo Hạnh tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, rồi trút xác ngay chỗ vết chân ướm vào trong hang núi. Sau khi Từ Đạo Hạnh trút xác, vừa lúc phu nhân Sùng Hiền hầu đẻ con trai, đặt tên là Dương Hoán. Người đời sau đều nói là Từ Đạo Hạnh đã đầu thai vào phu nhân Sùng Hiền hầu, đẻ ra Dương Hoán. Dương Hoán chính là vua Lý Thần Tông.

Chuyện thần thoại về Từ Đạo Hạnh đã chép trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”. Trong sách “Lĩnh Nam chích quái” cũng đã chép về Từ Đạo Hạnh, nhưng ly kỳ hơn, rằng Từ Đạo Hạnh là một nhà sư, nghiền ngẫm kinh Đại Bi Đà La, đọc trọn mười vạn tám nghìn lần. Một hôm, có một vị thần nhân đến báo là đã đắc đạo. Khi đắc đạo, Ông sống chung với các giống rắn núi, thú rừng. Chúng suốt ngày quấn quýt lấy ông. Cuộc đời Ông pha trộn giữa đạo và đời. Nhà khoa học nghi ngại không rõ mức độ chính xác về Từ Đạo Hạnh đến đâu, có điều là câu chuyện này đã đi vào truyền thuyết.

Thời Lý Thần Tông, ngoài chuyện về Từ Đạo Hạnh còn có chuyện Nguyễn Minh Không. Chuyện kể rằng, Lý Thần Tông mắc một căn bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng kêu đau đớn, gầm rú đáng sợ, người mọc lông như lông hổ. Các danh y trong thiên hạ vâng chiếu mà đến nườm nượp, có đến hàng vạn, tất cả đều chịu khoanh tay. Khi ấy, có đứa trẻ hát rằng, muốn chữa khỏi bệnh cho Nhà Vua thì phải tìm đến Nguyễn Minh Không. Triều đình bèn sai sứ đi tìm Nguyễn Minh Không. Khi đến, mọi người có vẻ coi thường, vì Nguyễn Minh Không ăn mặc quê mùa. Thấy vậy, Nguyễn Minh Không bèn lấy một chiếc đinh dài hơn năm tấc, đóng vào cột, nói: “Có nhổ được đinh này hãy nói chuyện chữa bệnh”1. Chẳng ai nhổ được. Nguyễn Minh Không lấy tay nhổ được chiếc đinh một cách nhẹ nhàng. Khi gặp vua Lý Thần Tông, Nguyễn Minh Không lớn tiếng nói: “Kẻ đại trượng phu được tôn lên ngôi thiên tử, giàu có khắp bốn bề, cớ sao còn phát bệnh cuồng loạn như vậy”2. Vua nghe nói, run sợ. Nguyễn Minh Không cho lấy một cái vạc lớn đựng dầu, đun lên sôi sùng sục, rồi lấy tay khoắng vào bốn lần, vẩy lên khắp thân thể Vua. Bệnh khỏi. Vua mừng lắm, phong cho Nguyễn Minh Không làm quốc sư; ban lộc mấy trăm hộ để thưởng công. Năm Tân Sửu, niên hiệu Thái Bình thứ 22, Nguyễn Minh Không tạ thế, thọ 76 tuổi.

Bắt đầu từ thời Lý Huệ Tông, cơ đồ Triều Lý xuống dốc dần. Đến đời vua Lý Chiêu Hoàng thì chấm dứt. Lý Chiêu Hoàng húy là Phật Kim, sau đổi làm Thiên Hinh, làm Vua được 2 năm thì phải nhường ngôi cho Nhà Trần.

Như vậy, sau vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn - 1010-1028) là vua Lý Thái Tông3 (Phật Mã - 1028-1054) vua Lý Thánh Tông (Nhật Tôn - 1054-1072), vua Lý Nhân Tông (Càn Đức - 1072-1128), vua Lý Thần Tông (Dương Hoán - 1128-1138), vua Lý Anh Tông (Thiên Tộ - 1138-1175)), vua Lý Cao Tông (Long Cán - 1176-1210), vua Lý Huệ Tông (Hạo Sam (Sảm) - 1211-1224), vua nữ Lý Chiêu Hoàng (công chúa Chiêu Thánh), làm vua dang dở, thì bị Trần Cảnh (Trần Thái Tông) của Nhà Trần thay thế. Từ Lý Thái Tổ lên ngôi vua vào năm Canh Tuất (1010) đến Lý Chiêu Hoàng, vua cuối cùng của Nhà Lý, nhường ngôi cho Trần Cảnh vào năm Ất Dậu (1225), tổng cộng được 9 đời vua, tồn tại 215 năm; bắt đầu từ năm Thuận Thiên thứ nhất, Canh Tuất (1010) với vị vua khai sáng là Lý Thái Tổ và kết thúc vào năm Thiên Chương thứ hai, Ất Dậu (1225) với Lý Chiêu Hoàng. Đây là một triều đại khá dài và có nhiều sự kiện lịch sử ly kỳ, đáng ghi nhớ.

Việc Nhà Lý hình thành, phát triển, rồi suy vong là có điềm trời báo trước. Sử thần Ngô Sĩ Liên trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, kể rằng, khi Lý Thái Tổ lên ngôi vua, có lần xa giá về cổ pháp, ngự chơi chùa hương Phù Đổng, có một vị thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng:

“Nhất bát công đức thủy,

Tùy duyên hóa thế gian,

Quang quang trùng chiếu chúc,

Một ảnh nhật đăng san”.

(Một bát nước công đức của Phật, Theo cơ duyên sinh thành cho thế gian, Vằng vặc hai lần đuốc soi sáng, Mặt Trời gác núi là hết bóng)1.

Sư chùa Phù Đổng là Vạn Hạnh đem bài thơ ấy dâng lên. Lý Thái Tổ xem xong rồi nói: “Việc của thần nhân thị không thể hiểu được”2. Người đời truyền tụng, không ai biết bài thơ ấy nói thế nào. Đến khi Nhà Lý mất, mới cho bài thơ ấy là nghiệm, vì từ đời vua Lý Huệ Tông trở lên đến Lý Thái Tổ là 8 đời. Chữ “nhất bát” trong bài thơ là từ 1 đến 8, mà vua Lý Huệ Tông tên là Sam. Chữ “Sam” (Sảm) là tên Lý Huệ Tông. Trên chữ “nhật” là Mặt Trời, dưới chữ “san” (sơn) là núi, thành “Sam”, tức là Mặt Trời gác núi, hết bóng. “Nhà Lý được nước là tự trời, mất nước cũng là tự trời vậy”3.

- Thời Trần, Phật giáo vẫn được tôn sùng, nhưng Nho giáo lại chiếm ưu thế hơn. Đây là chỗ khác nhau giữa Nhà Lý và Nhà Trần. Tướng - số dưới các triều vua Nhà Trần phát triển rộng khắp. Kinh thành Thăng Long, đêm đêm, người ta thấy những ánh lửa le lói trong các phố phường. Đó là nơi các nhà tướng - số hành nghề. Mỗi độ tết đến, xuân sang, các nhà tướng - số xuất hiện khắp đất nước để gieo quẻ cho những ai tin vào tướng - số. Các nhà tướng số còn chúc phúc cho đất nước một năm mưa thuận, gió hòa.

Câu chuyện về Nhà Trần được bắt đầu từ nhân vật Trần Cảnh. Lịch sử ghi nhận rằng, ngay từ thời vua Lý Huệ Tông, Nhà Lý đã bắt đầu ngả bóng hoàng hôn. Đến thời Lý Chiêu Hoàng thì cơ ngơi Nhà Lý sụp đổ trông thấy. Điện tiền chỉ huy sứ Triều Lý là Trần Thủ Độ đã bắt đầu gài con cháu họ Trần ở Nam Định vào giữ các chức vụ trong Triều đình họ Lý. Trong số những người họ Trần được Trần Thủ Độ gài vào có người cháu là Trần Cảnh. Khi Lý Chiêu Hoàng lên ngôi Vua, Trần Cảnh mới 8 tuổi, chực hầu ở bên ngoài. Một hôm, đến phiên giữ việc bưng nước rửa, nhân thế mà được vào hầu bên trong, dần dà, Lý Chiêu Hoàng có cảm tình, đùa bỡn với Trần Cảnh. Lại có lần, Lý Chiêu Hoàng té nước vào Trần Cảnh. Trần Cảnh về tâu với Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ cho rằng, đây có thể là điềm báo nước sắp về tay họ Trần. Tuy nhiên, cũng rất lo sợ, vì sợ việc tiết lộ sẽ bị giết cả họ Trần. Vì vậy, mới bí mật đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm, sai đóng cửa thành và các cửa cung, cắt người coi giữ. Các quan vào chầu không được vào. Trần Thủ Độ loan báo rằng: “Bệ hạ đã có chồng rồi”1. Rồi ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh. Trần Cảnh có tướng mạo của bậc đế vương, sinh vào năm Mậu Dần. Vua mũi cao, mặt rồng. Nhờ có người chú họ là Trần Thủ Độ làm quan trong Triều Lý, cho nên Trần Cảnh mới được vào hầu trong cung, gặp Lý Chiêu Hoàng, thành vợ thành chồng của hai bậc đế vương.

Các quan sợ Trần Thủ Độ một phép, chẳng ai dám ho he, chỉ biết tuân lệnh. Trần Cảnh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Trần Thái Tông2. Trần Cảnh lên ngôi, phong Trần Thủ Độ làm Quốc Thượng phụ, coi việc thiên hạ. Có lần, đi qua trước chùa Chân Giáo, Trần Thủ Độ thấy Lý Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ, Trần Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì nhổ hết rễ”3. Lý Huệ Tông đứng vùng dậy, phủi tay nói: “Câu ngươi nói, ta hiểu rồi”. Rồi sai người bày biện hương hoa, nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”1. Lý Huệ Tông tụng kinh xong, lẳng lặng đi vào buồng ngủ khấn rằng: Thiên hạ của nhà ta đã về nhà mày rồi, mày lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến ngày khác con cháu nhà mày cũng lại như thế”2. Bèn tự thắt cổ ở vườn sau chùa Chân Giáo. Trần Thủ Độ sai các quan đến khóc, khoét thành phía Nam làm cửa (người bấy giờ gọi là cửa khoét), đưa linh cữu Lý Huệ Tông ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang. Đứng trước sự kiện này, Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Nhà Lý được nước không kém gì Tam đại, truyền đến Huệ Tôn không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương đến đây đã hết rồi, cho nên họ Trần mới lấy được nước. Đã lấy nước của người ta, lại giết vua của người ta, thì bất nhân quá lắm. Đến sau Phế đế phải thắt cổ chết, nhà vua bị giết3, tự mình làm thế nào thì sau lại phải chịu thế, đạo trời như thế, dù không có lời nguyền rủa của Huệ Tôn cũng chắc là phải thế. Thủ Độ lấy việc đó làm hết trung mưu việc nước, có biết đâu là thiên hạ đời sau đều cho là giặc giết vua; huống chi lại còn làm thói chó lợn”4. Trần Thủ Độ giết hết tôn thất Nhà Lý để tạo thế vững chắc cho ngôi vua Nhà Trần.

Thời Trần, nổi lên nhiều người tài giỏi, như Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải,..., đặc biệt là Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) đã ba lần chỉ huy đánh thắng quân Nguyên xâm lược. Có vị vua đầy lòng nhân từ bác ái như vua Trần Nhân Tông. Tinh thần cứu nước, bậc triết nhân và tâm hồn thi sĩ là ba phẩm chất vua Trần Nhân Tông. Riêng đối với Trần Thủ Độ đang còn có những ý kiến đánh giá khác nhau. Có người cho rằng, Trần Thủ Độ là một con người tàn bạo, bất chấp tất cả, miễn là tiêu diệt được Triều Lý để dựng lên Triều Trần. Tuy nhiên, xét dưới góc độ lợi ích dân tộc, thì cuối Triều Lý, cụ thể là đến đời vua Lý Huệ Tông nối sang đời vua Lý Chiêu Hoàng, hình như lúc này Nhà Lý không còn nhân tài ra giúp nước. Vì vậy, nước Nam ta cần phải dựng lên một triều đại mới, đầy trí tuệ, trẻ trung và sung sức để gánh vác công việc mà lịch sử giao phó. Lực lượng đang trỗi dậy này nằm trong tay Nhà Trần. Vì vậy, việc Nhà Trần thay thế Nhà Lý là có lợi cho cho đất nước. Công lao của Trần Thủ Độ chính là chỗ này. Có thể nói Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ, người đã tạo dựng lên triều đại Nhà Trần, một triều đại với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam. Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) và mất ngày 7-7 năm Giáp Tý (1264), thọ 70 tuổi. Bằng tài năng mưu trí, sự tận tâm của mình, Trần Thủ Độ đã lập nên Nhà Trần cùng nền móng bền vững cho triều đại này qua 14 đời vua trị vì, xây dựng lên nước Đại Việt cường thịnh trong thế kỷ XIII. Ông có tài quản lý đất nước, phát triển kinh tế, ổn định xã hội, mở mang giáo dục. Cũng chính Ông đã trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất thắng lợi, tạo tiền đề vững chắc cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông sau này, dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Còn việc quan hệ loạn luân giữa Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu đang có thai và phế truất Hoàng hậu Chiêu Thánh (Lý Chiêu Hoàng) là việc trong nhà của Nhà Trần. So với việc Nhà Trần ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông xâm lược với việc lục đục trong gia thất Nhà Trần là chuyện nhỏ. Trần Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan Triều Lý được mọi người suy tôn. Trần Thái Tông (Trần Cảnh) lấy được thiên hạ từ tay Nhà Lý đều do mưu lược của Trần Thủ Độ cả. Lịch sử ghi nhận cái tài biết người và dùng người của Trần Thủ Độ. Chuyện kể rằng, có một người vào khóc trước vua Trần Thái Tông, than phiền về sự lũng đoạn cung đình của Trần Thủ Độ, quyền hơn cả Vua, không biết rồi đây,  sơn hà xã tắc sẽ ra sao? Nghe vậy, Vua Trần lập tức xa giá đến nhà Trần Thủ Độ và đem theo cả người ấy đi. Vua đem lời của người tâu ấy nói tất cả cho Trần Thủ Độ rõ. Trần Thủ Độ trả lời: “Đúng như lời người ấy nói”1, rồi lấy tiền, lụa thưởng cho người ấy. Lại có lần Linh Từ quốc mẫu2 ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, người quân hiệu ngăn lại không cho đi. Bà bực dọc, về nhà nói với Trần Thủ Độ rằng: “Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu khinh nhờn như thế”1. Trần Thủ Độ nghe vậy, giận sai đi bắt người quân hiệu. Người quân hiệu ấy chắc là phải chết. Khi đến nơi, Trần Thủ Độ vặn hỏi trước mặt. Người quân hiệu ấy đem sự thực trả lời. Trần Thủ Độ nói: “Người ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa”2. Lấy vàng lụa thưởng cho người ấy, rồi cho về. Nhân có việc điều tra định sổ hộ khẩu (điều tra dân số), do Trần Thủ Độ đứng đầu. Nhân dịp này, Linh Từ quốc mẫu xin với Trần Thủ Độ cho một người quen làm câu đương3. Trần Thủ Độ gật đầu và ghi lại họ, tên, quê quán của người ấy. Khi xét duyệt sổ hộ khẩu đến xã ấy, hỏi rằng, người xin làm câu đương ấy đâu? Người ấy mừng chạy đến. Trần Thủ Độ nói: “Người vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác”4. Người xin chức câu đương theo kiểu quen biết, sợ toát mồ hôi, kêu van xin thôi, hồi lâu, Trần Thủ Độ mới tha cho. Từ đấy, không ai dám đến nhà thăm riêng nữa. Trần Thái Tông muốn cho một người anh của Trần Thủ Độ là Trần An Quốc làm tướng. Trần Thủ Độ nói: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho thần là hiền hơn An Quốc, thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều đình sẽ ra sao?”5. Vua bèn thôi. Trần Thủ Độ tuy làm Tể tướng mà phàm công việc không việc gì là không để ý. Vì thế mà nên nghiệp vương, giữ được tiếng tốt cả đời. Thời phong kiến mà có người công minh trong công việc dùng người như Trần Thủ Độ, thật khâm phục quá đi. Thời nay, tôi chưa thấy một ai làm được như Trần Thủ Độ. Tuy nhiên, Sử thần Ngô Sĩ Liên vẫn viết về Trần Thủ Độ: “Nhưng mà cái tội giết vua và thông dâm với hoàng hậu khó tránh khỏi đời sau này”6.

Thời Trần có chuyện Trần Nhật Duật sinh. Có vị đạo sĩ ở cung Thái Thiên tên là Thậm làm lễ cầu tự cho Vua. Khi đọc sớ xong, vị đạo sĩ tâu với Vua rằng: “Thượng đế đã y lời sớ tâu, sẽ sai Chiêu Văn Đồng Tử giáng sinh, ở trần thế 4 kỷ”1. Rồi thì hậu cung có mang, quả nhiên sinh con trai, ở hai cánh tay có chữ: “Chiêu Văn Đồng Tử”, nét chữ rõ ràng, cho nên mới đặt niên hiệu Chiêu Văn (Trần Nhật Duật). Đến khi lớn lên, nét chữ mới mất đi. Trần Nhật Duật là người văn võ song toàn, thông thạo ngoại ngữ, làm công tác ngoại giao rất tốt. Năm Trần Nhật Duật 48 tuổi, ốm hơn một tháng, các con của Ông làm lễ ăn chay, tế trời đất, xin giảm bớt tuổi của mình để cha được sống lâu. Vị đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dậy nói: “Thượng đế xem sớ, cười mà nói rằng: Sao lại quyến luyến trần tục ở lại lâu thế? Song, các con thực sự có hiếu, có thể cho được sống lại thêm 2 kỷ nữa”2. Quả nhiên, Trần Nhật Duật khỏi bệnh. Đến khi Trần Nhật Duật mất, thọ 77 tuổi, được đủ 6 kỷ lẻ 5 năm. Về sự kiện này, sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: “Việc đạo sĩ cầu tự, cho là đáng tin chăng? Thì lòng thành cảm động, xa mấy mà chẳng tới được. Song, lúc người đạo sĩ rạp lạy đợi mệnh trời, hoặc giả trời hiện chiêm bao để bảo cho. Kể ra lý và số cùng tự lẫn nhau, lý sinh ra ở số, số cũng sinh ra ở lý, mệnh dài ngắn là số, lòng hiếu thảo thành ra lý. Có người bảo rằng, đạo sĩ có thể cầm giữ sinh mệnh mà bay lên trời được, nhưng tôi không tin”3.

Thời Trần rất coi trọng phong thủy, cho các nhà địa lý, tướng - số đi xem khắp các núi sông trong nước Đại Việt. Chỗ nào có vượng khí thì dùng phép thuật để trấn áp, như là đào sông Bà Mã, đục núi Chiếu Bạc ở Thanh Hóa,... Ngoài ra, còn cho lấp các khe kênh, mở đường ngang dọc, thì nhiều không kể xiết. Từ khi có trời đất nước Nam, đã có sông, có núi, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân sinh ra, đều có số cả. Thời vận có lúc nhặt, lúc thưa, lúc nào cũng có, không bao giờ hết, như sự chuyển động của vũ trụ bao la. Tuy nhiên, cũng có người phản biện lại, nói rằng, nếu bảo là núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp được, thì khi trời chuyển vận, thánh nhân sinh ra, có pháp thuật gì để trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết là phương Đông Nam có khí thiên tử, thường đến chơi phương ấy để trấn áp, mà Hán Cao Tổ vẫn nổi dậy, rốt cuộc, không thể trấn sáp nổi. Vì vậy, phải tùy theo hoàn cảnh địa lý, xã hội của nước ấy, vùng lãnh thổ ấy mà tính chuyện địa vận cho phù hợp, không nên cứng nhắc, theo một cái khuôn có sẵn.

Thời Trần có nhiều anh hùng hảo hán, nhưng cuốn sách này chỉ chuyên nghiên cứu về lý số, cho nên không thể kể hết ra đây. Như vậy, kỷ Nhà Trần tồn tại từ năm 1225-1400, tất cả 175 năm, quốc hiệu: Đại Việt, kinh đô Thăng Long, gồm có tất cả 12 đời vua: Trần Thái Tông (Trần Cảnh - 1225-1258); Trần Thánh Tông (Trần Hoàng - 1258-1278); Trần Nhân Tông (Trần Khâm - 1279-1293); Trần Anh Tông (Trần Thuyên - 1293-1314); Trần Minh Tông (Trần Mạnh - 1314-1329); Trần Hiến Tông (Trần Vượng - 1329-1341); Trần Dụ Tông (Trần Hạo - 1314-1369); Trần Nghệ Tông (Trần Phủ, Cung Định Vương - 1370-1372); Trần Duệ Tông (Trần Kính - 1372-1377); Trần Phế Đế (Trần Hiện); Trần Thuận Tông (Trần Ngung - 1388-1398); Trần Thiếu Đế (Trần Án - 1398-1400).

- Thời Hồ Quý Ly, người ta vẫn tin vào mệnh trời, tuy khoa tướng - số không phát triển bằng thời Trần. Hồ Quý Ly chủ trương theo đạo Giáo (Lão Tử), trong khi đạo Phật (Thích Ca Mâu Ni), đạo Khổng (Khổng Tử) vẫn được tôn sùng.

Triều Hồ đã anh dũng chống quân xâm lược Minh suốt từ tháng 11-1406 đến tháng 6-1407, cuộc kháng chiến do Nhà Hồ lãnh đạo hoàn toàn thất bại. Nhưng cũng nên có cái nhìn đúng đắn hơn về Triều Hồ. “Triều Hồ, trước hết là Hồ Quý Ly và những người lãnh đạo chủ chốt của triều đình và quân đội, đều chủ trương kiên quyết đánh giặc giữ nước. Lịch sử cần công minh ghi nhận tinh thần yêu nước, ý chí đánh giặc của Hồ Quý Ly và những người đứng đầu vương triều Hồ”1. Cuộc đời số phận của Hồ Quỹ Ly long đong, vất vả, chống đỡ tứ phương; giữa cái ác và cái thiện trong con người Hồ Quý Ly đan xen nhau, thật khó lường. Thượng tướng quân Trần Khát Chân và Thái bảo Trần Hãng và tay chân đã từng lập mưu giết Hồ Quý Ly, nhưng không thành. Thuộc hạ cộng hơn 370 người đều bị Hồ Quý Ly giết. Hồ Quý Ly còn tịch thu gia sản của những người đó, con gái bắt làm tì, con trai từ 1 tuổi trở lên hoặc bị chôn sống, hoặc bị dìm xuống nước. “Lùng bắt dư đảng đến mấy năm không thôi. Người quen biết nhau chỉ nhìn nhau bằng mắt, không dám nói chuyện với nhau. Nhà dân không cho chứa người đi đường ngủ đỗ. Nếu có người ngủ đỗ thì phải báo cáo với người láng giềng, cùng nhau hỏi giấy tờ, đồ hành lý, duyên do đi qua, để làm bảo chứng. Các xã đều đặt điếm tuần đêm ngày canh phòng xét hỏi”1. Thượng tướng Trần Khát Chân bị đem đi chém. Người đời truyền rằng, khi Trần Khát Chân sắp bị đem đi chém, lên núi Đốn Sơn gào thét: “Chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như sống, ruồi nhặng không dám bậu vào. Sau có gặp đại hạn đảo vũ thì ứng ngay”2. Vụ giết người tàn bạo này của Hồ Quý Ly đã để lại hậu quả sau đó trong mối quan hệ nhân quả mà Hồ Quý Ly không biết.

Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, tự xưng là Thái Thượng hoàng, cùng với Hồ Hán Thương trông coi chính sự. Hồ Hán Thương đã có một số cải cách, ra lệnh cho các quan viên không được đi hia, chỉ cho đi giày gai sống; cấm uống rượu, cho là phí thóc,... Tuy nhiên, dòng họ này không có hậu. Khi quân Minh tràn sang xâm chiếm nước Đại Việt, quan dân “chán ghét chính lệnh tàn bạo của họ Hồ, không ai có lòng đánh giặc”3. Ngày 20-1-1407, quân Minh chiếm được thành Đa Bang (Ba Vì), cha con Hồ Quý Ly phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Đến ngày 17-6-1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly, mang về Trung Quốc. Theo số liệu ghi trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, thì quân Minh sang xâm lược nước ta, đã chiếm được 48 phủ châu, 168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu, 8.865 cái thuyền. Từ đây, đất nước ta bị Nhà Minh đô hộ với một chính sự rất hà khắc. “Chúng vơ vét của cải, hãm hiếp đàn bà, con gái, giết đàn ông và còn thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi để mong đồng hóa dân ta”4.

Nhà Hồ trị vì từ năm 1400-1407, vẻn vẹn chỉ có 7 năm, với hai đời vua: Hồ Quý Ly (1400); Hồ Hán Thương (1401-1407); đặt Quốc hiệu là Đại Ngu; Kinh đô là Tây Đô, Thanh Hóa. Có người thắc mắc rằng, tại sao Hồ Quý Ly lại đặt tên nước là Đại Ngu? Có phải cái tên này đã dẫn đất nước đến bại vong không?

- Thời Lê Lợi, vấn đề tướng - số vẫn được duy trì và phát triển. Thuyết ngũ hành được phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp nho sĩ. Ở Kinh thành xuất hiện nhiều nhà tướng - số, nhà địa lý, nhưng không có ai nổi bật. Đặc điểm của thời vua Lê Lợi là tất cả các lăng miếu của triều trước bị phá hoại, đều được làm lại; cấp cho số người giữ việc thờ cúng theo thứ bậc khác nhau.

Trong các gương mặt thời Lê Lợi, có gương mặt của chính Lê Lợi, liên quan đến tướng - số, mệnh số. Lê Lợi người xã Lam Sơn, huyện Lương Giang, tỉnh Thanh Hóa. Ông ở ngôi Vua được 6 năm, thọ 49 tuổi1. Thi hài Ông chôn ở Vĩnh Lăng. Công lao lớn nhất của Lê Lợi là đã phất cờ khởi nghĩa, đánh tan quân Minh xâm lược, khôi phục lại giang sơn xã tắc, việc mà Hồ Quý Ly trước đó đã không làm được. Khi lên ngôi Vua, Ông đã định ra luật lệnh, phép tắc, lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, phân định quan chức, lập phủ, huyện.

Tổ ba đời của Lê Lợi là Lê Hối. Một hôm, Lê Hối đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay quanh dưới núi, giống như hình dạng nhiều người quần tụ, Ông nói với những người cùng đi: “Chỗ này tất là đất tốt”2, và Ông đã quyết định dời nhà đến đấy lập nghiệp. Được 3 năm thì cơ đồ phát đạt. Từ đấy, đời đời làm hùng trưởng một phương. Thế mới biết chọn đất để ở là rất quan trọng.

Lê Lợi sinh vào năm Ất Sửu (đàn ông mà sinh vào các năm Ất Sửu, Đinh Sửu thường lập lên sự nghiệp lớn). Nhìn thiên tư Lê Lợi, thấy “tuấn tú khác thường, thần sắc đẹp mạnh, mắt sáng, mồm rộng, mũi cao, vai có nốt ruồi, tiếng to như tiếng chuông, đi như rồng, bước như hổ, kẻ thức giả biết là người phi thường”3. Nhìn Lê Lợi lúc còn niên thiếu, các nhà tướng - số đều nói rằng, với tướng mạo này, chắc chắn sự nghiệp sẽ ngồi ghế thiên tử. Nghe vậy, gia đình mừng lắm. Lê Lợi là người sáng suốt mà kiên quyết. Trước đó, các quan đại thần Đặng Tất và Nguyễn Súy cùng nhau lập con cháu Nhà Hậu Trần là Trần Giản Định (Trần Ngỗi) và Trần Quý Khoáng (Trần Trùng Quang) lần lượt làm Vua. Nhưng Lê Lợi thấy họ đều là những người hèn nhát, lại say đắm tửu sắc, biết là không nên việc, mới ẩn náu ở nơi rừng núi, nghiên cứu binh thư, tìm mời những người có chí và có trí, chiêu tập những dân lưu ly, hăng hái dấy nghĩa binh, chỉ muốn dẹp loạn lớn. Phép dụng binh của Lê Lợi là biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu để chế mạnh. Phép này đã mang về chiến thắng cho Lê Lợi. Các thành trì có quân Minh đóng, Lê Lợi đều sai văn thần Nguyễn Trãi viết thư khuyên bảo những điều phúc họa, cho nên không đánh mà phải đầu hàng. “Chưa từng giết bậy một người nào, bắt được viện binh của Nhà Minh hơn 10 vạn người đều tha hết cả. Kinh dinh thiên hạ trong khoảng 10 năm, dẹp yên loạn lớn mà nên nghiệp đế”1. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Vua nổi dậy, nghĩa binh đến đâu, người Minh đều thua chạy, có phải là vì quân nhiều hay ít, mạnh hay yếu mà không địch nổi đâu? Là vì đức của Vua hợp với trời, nên trời giúp cho, đẹp lòng người nên người theo về, không những là người nước vui lòng theo phục, mà cả đến bọn phản nghịch cũng tôn kính như thế, cho nên không muốn chống nữa mà đều về hàng. Thế thì việc nhân nghĩa của Vua so với Thang Vũ có phần sáng tỏ; xem việc này ngày càng rõ rệt. Còn như nói điềm được nước, há nên lấy lời sấm vĩ mà xét ư”2. Đúng là lòng trời sinh ra vua hiền, đánh bằng nghĩa, dẹp bằng nhân, non sông mới được thanh bình, nhật nguyệt càng thêm sáng tỏ.

Khi đất nước sạch bóng quân Minh, vua Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi soạn “Bình Ngô đại cáo”. Đây là một áng thiên cổ hùng văn. Có những câu mang tính tổng kết rất hay:

“Cuối cùng, lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn

Lấy chí nhân mà thay cường bạo”3.

Đời vua Lê Thái Tông (sau Lê Lợi), có chuyện đau lòng oan ức với Nguyễn Trãi, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, chỉ sau Lê Lợi. Số là, có lần Vua đi tuần về phía Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi đón Vua ngự chùa Côn Sơn4, ở nhà của Nguyễn Trãi, cạnh chùa. Vua đi thuyền từ bến Đông, vào sông Thiên Đức, qua mộ Bạch Sư ở cầu Bông, xã Đại Toán, huyện Quế Dương. Thuyền của Vua không làm sao mà đi lên được. Các quân hết sức kéo dây cũng không chuyển, hình như có người giữ lại. Vua sai Trung sứ1 đi hỏi khắp những người già cả ở gần đấy, rằng chỗ ấy có thần linh chăng. Có người nói: “Ngày xưa có người gọi là Bạch Sư, khi còn sống tinh thông pháp thuật, sau khi chết để mộ ở cạnh sông, thường có hiển linh, người ở xứ này vẫn kính trọng lắm”2. Trung sứ hỏi tế bằng thứ gì? Người đó nói tế bằng nghé non. Trung sứ đem việc ấy tâu Vua, lập tức Vua sai lấy nghé non để tế. Bấy giờ thuyền của Vua mới đi được.

Khi Vua về đến vườn Lệ Chi (Lệ Chi viên), xã Đại Lai, huyện Gia Định (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Giang), gặp Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ở đây. Trước đó, Vua thích vợ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương hay, được Vua gọi vào cung giao cho chức Lễ nghi nữ học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh. Có thể là khi Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn thì Nguyễn Thị Lộ cũng cùng về và cả hai người đều gặp Vua tại nhà ở vườn Lệ Chi. So với tuổi của vua Lê Thái Tông thì Nguyễn Thị Lộ cũng hơn đến hai mươi tuổi là ít, nhưng Vua vẫn cứ mê say đắm, thật là kỳ cục. Đến khi gặp Nguyễn Thị Lộ ở đây, Vua thức suốt đêm với Bà. Đêm ấy, Vua mất đột ngột. Các quan bí mật đưa thi hài Vua về Kinh thành Thăng Long, nửa đêm đem vào cung, mới phát tang. Các quan cơ hội trong Triều kết tội Nguyễn Thị Lộ giết Vua, cho nên quan hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ đều bị giết, giết đến ba tộc, gọi là “chu di tam tộc”, khoảng trên dưới 70 người. Đó là ngày 16 tháng Tám năm Nhâm Tuất (1442). Đây là bản án khủng khiếp nhất dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Nguyễn Trãi và dòng tộc không làm nên tội mà cũng bị vạ lây. Vấn đề cốt lõi ở chỗ bọn cơ hội trong Triều đình không để cho Nguyễn Trãi, một bậc tài, đức song toàn được sống, vì nếu Ông còn sống, thì hình bóng chúng sẽ bị lu mờ. Còn Ông thì vẫn nghĩ rằng, bọn chúng cũng tốt như Ông và Ông đã mất cảnh giác. Xét về mặt tướng - số, mệnh số, gia đình Nguyễn Trãi gặp phải cung mệnh rất khắc nghiệt. Thân phụ là Nguyễn Phi Khanh (Nguyễn Ứng Long) làm quan cho Triều Hồ Quý Ly, bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc trị tội, rồi đến đời Ông... Thương cảm với gia cảnh quá khắc nghiệt của Nguyễn Trãi, tôi có làm bài thơ:

 

Trước ải Nam Quan:

 

Tiễn cha đến ải Nam Quan

Lệ rơi lã chã trong làn mưa đông.

Trời mây non nước mịt mùng

Sương giăng đầy ải một vùng quạnh hiu.

Cha và con mặt buồn thiu

Cảm linh chưa thấy bao điều xảy ra.

Cha dần khuất núi chiều tà

Con quay trở lại sao mà vấn vương.

Công danh, sự nghiệp, tình thương

Lẫy lừng buổi sáng tai ương buổi chiều.

Ức Trai học rộng biết nhiều

Nhưng Ông không biết những điều bên trong.

 

Praha, Séc, Đêm 23-1-2002

Đức Vượng

 

Như vậy, Triều Lê Sơ tồn tại 99 năm (từ năm 1428-1527); Quốc hiệu là Đại Việt; Kinh đô là Đông Đô (từ năm 1430 đổi là Đông Kinh - Hà Nội). Triều Lê Sơ có tất cả 10 đời vua: Lê Thái Tổ (Lê Lợi - làm Vua từ 1428-1433); Lê Thái Tông (Nguyên Long - làm Vua từ 1434-1442); Lê Nhân Tông (Bang Cơ - làm Vua từ 1443-1459)1; Lê Thánh Tông (Tư Thành - làm Vua từ 1460-1497); Lê Hiển Tông (Tăng - làm Vua từ 1498-1504); Lê Túc Tông (Thuấn - làm Vua 1504); Lê Uy Mục Đế (Tuấn - làm Vua từ 1505-1509); Lê Tương Dực (Oanh - làm Vua từ 1509-1516); Lê Chiêu Tông (Ý - làm Vua từ 1516-1522); Lê Hoàng Đệ Xuân (Cung Hoàng - làm Vua từ 1522-1527).

Xen kẽ giữa Nhà Lê Sơ với Nhà Hậu Lê, còn có Nhà Mạc, nhưng lịch sử không tính vào dòng vua chính thống. Nhà Mạc trị vì từ năm 1527-1592; kinh đô là Đông Kinh (Hà Nội). Theo sách “Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam” của Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức (đã dẫn) thì từ năm 1533 trở về sau, khi có Nhà Lê Trung Hưng thì Nhà Mạc được xem là ngụy triều. Người lập ra Nhà Mạc là Mạc Đăng Dung (trị vì từ năm 1527-1529). Mạc Đăng Dung (1483-1541), người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Đồ Sơn, Hải Phòng), là cháu bảy đời của Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi. Tướng mạo của Mạc Đăng Dung khôi ngô, sức khỏe phi thường, từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, đi thi võ ở Kinh đô, trúng đô lực sĩ, được sung vào chân túc vệ, chuyên cầm dù theo xe  của vua; dần dần được phong làm Trấn thủ Sơn Nam với chức Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời Vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong làm Thái sư Nhân quốc công, rồi đến An Hưng vương. Lợi dụng lúc Vua Lê Cung Hoàng yếu thế, tháng 6-1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai đem quân về Kinh đô, ép Vua nhường ngôi, tự lập làm Vua, đặt niên hiệu là Minh Đức. Sau Mạc Đăng Dung là Mạc Đăng Doanh (trị vì từ năm 1530-1540); Mạc Phúc Hải (trị vì từ năm 1541-1546); Mạc Phúc Nguyên (trị vì từ năm 1546-1564); Mạc Mậu Hợp (trị vì từ năm 1564-1592). Mạc Mậu Hợp là con cả Mạc Phúc Nguyên. Số mệnh của Mạc Mậu Hợp thật éo le, bị sét đánh ở trong cung, bị bại liệt nửa người, sau chữa thuốc lại khỏi, nhưng rồi lại bị chứng thong manh, chữa mãi mới khỏi. Khỏi bệnh, Mạc Mậu Hợp lao vào ăn chơi trụy lạc, làm cho chính sự Nhà Mạc ngày càng đổ nát, binh lực suy yếu, lòng người ly tán. Ngày 25-11-1592, thủy quân Lê - Trịnh gồm 300 chiếc thuyền đánh vào các huyện Kim Thành, Thanh Hà, Nam Sách, Kinh Môn, tỉnh Hải Dương ngày nay. Quân Mạc tan vỡ, dư đảng Nhà Mạc xin hàng Trịnh Trùng rất đông. Mạc Mậu Hợp chạy trốn, bị bắt giải về kinh đô Đông Đô, bị treo sống ba ngày rồi bị chém đầu ở bãi cát Bồ Đề, năm ấy Mạc Mậu Hợp 31 tuổi. Con trai Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn chạy trốn, sau quân Trịnh bắt được chém đầu tại bến Thảo Tân. Như vậy, họ Mạc từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp truyền ngôi được 5 đời thì mất. Con cháu Nhà Mạc, theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, họ rút lên Cao Bằng, kéo dài được đến năm 1677 mới bị diệt hẳn.

- Thời Vua Lê - Chúa Trịnh: Sau Nhà Mạc là Nhà Hậu Lê (Lê Trung Hưng hay thời Lê - Trịnh trở về sau 1533-1788), 255 năm (bị gián đoạn từ năm 1527-1532, do Nhà Mạc cướp ngôi). Nhà Hậu Lê truyền ngôi được 16 đời, các đời đều ngắn: Lê Trang Tông (Duy Ninh - làm Vua từ 1533-1548); Lê Trung Tông (Lê Huyên - làm Vua từ 1549-1556); Lê Anh Tông (Duy Bang - làm Vua từ 1557-1573); Lê Thế Tông (Duy Đàm - làm Vua từ 1573-1600); Lê Kinh Tông (Duy Tân - làm Vua từ 1600-1619); Lê Thần Tông (Duy Kỳ - làm Vua từ 1619-1643); Lê Chân Tông (Duy Hựu - làm Vua từ 1643-1649); Lê Thần Tông (Duy Kỳ - làm Vua từ 1649-1662); Lê Huyền Tông (Duy Vũ - làm Vua từ 1663-1671); Lê Gia Tông (Duy Hội - làm Vua từ 1672-1675); Lê Hy Tông (Duy Hợp - làm Vua từ 1676-1705); Lê Dụ Tông (Duy Đường - làm Vua từ 1705-1729); Lê Đế Duy Phương (làm Vua từ 1729-1732); Lê Thuần Tông (Duy Tường - làm Vua từ 1732-1735); Lê Ý Tông (Duy Thìn - làm Vua từ 1735-1740); Lê Hiến Tông (Duy Diêu - làm Vua từ 1740-1786); Lê Mẫn Đế (Duy Kỳ, Lê Chiêu Thống - làm Vua từ 1787-1788).

Thời Vua Lê - Chúa Trịnh, vấn đề tín ngưỡng, tướng - số, lễ bái, mệnh trời đâu đâu cũng có, nhất là từ khi Thịnh Vương Trịnh Sâm lên ngôi Chúa. Thời này, người dân đi lễ chùa, cầu tự rất đông, do đó, chùa, đền mọc lên khắp nơi. Người ta tin vào thần linh. Câu chuyện về Tuyên phi Đặng Thị Huệ đã nói lên điều này. Số là, khi Đặng Thị Huệ có mang với Trịnh Sâm, “Chúa liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu xin con Thánh. Đến kỳ ả sinh được một trai, vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng 38 (1777), Chúa hết sức yêu mến đứa bé, lúc đầy trăm ngày, Chúa lấy tên của mình lúc nhỏ là Cán mà đặt cho nó, để tỏ ra nó cũng giống mình”1. Trịnh Cán tuy khuôn mặt sáng sủa, rạng rỡ thông minh, nhưng mệnh yểu, sức khỏe rất yếu. Thuốc thang mãi không khỏi, Chúa lại sai người đi lễ bái khắp đền đài có tiếng linh thiêng; lại cho thiết lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang, cầu khẩn. Cúng bái, thuốc thang tốn kém như thế, nhưng bệnh vẫn không khỏi. Có người tố cáo với Chúa, nói là do Tiệp Dư1 không được Chúa yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn hình người gỗ ở trong cung để yểm. Chúa giận lắm, sai bắt người nhà Tiệp Dư để tra hỏi, nhưng bọn này đều trốn hết, tìm khắp nơi không lùng bắt được một người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào chỗ chôn người gỗ, cũng không thấy gì, việc này mới thôi. Nhưng Chúa vẫn còn nghi ngờ, cho nên cứ để mặc cho Đặng Thị Huệ thả sức cúng lễ. Vì vậy, ông đồng, bà cốt ra vào tấp nập, y như trảy hội. Lại một câu chuyện nữa về tâm linh, Thái phi họ Dương vào cung đã lâu ngày, vẫn không có con. “Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng. Nàng không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi viên quan Khê Trung hầu. Khê Trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh”2. Thái phi trải qua một trận mưa móc, liền có thai với chúa Trịnh Sâm, sinh ra Trịnh Tông.

Đặc điểm nổi bật của thời vua Lê chúa Trịnh là xuất hiện nhà địa lý xem đất, nhà tướng - số lừng danh Tả Ao. Ông được tôn là ông Thánh Địa lý Tả Ao, là thầy địa lý xem đất để hạ huyệt giỏi nhất Việt Nam. Tên Ông là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Có thời gian, Ông sang Trung Quốc nghiên cứu về địa lý xem đất. Sau khi thành tài, Ông xin về nước. Trước khi về nước, ông thầy địa lý người Tàu đã dạy Tả Ao, muốn thử tài của Ông, bèn làm một trăm mô hình đất kết trên một bãi cát. Dưới mỗi huyệt kết có yểm một đồng tiền, rồi đưa cho Tả Ao một trăm cây kim, bảo ra điểm huyệt. Tả Ao đã cắm được 99 cây kim vào 99 lỗ đồng tiền và một cây vào mép lỗ đồng tiền thứ 100. Thấy vậy, ông thầy địa lý người Tàu lắc đầu nói: “Nghề địa lý chính tổng của ta đã được người Việt Nam học hết rồi”3.

- Thời Nguyễn Quang Trung (Nguyễn Huệ) - Nhà Tây Sơn, vấn đề tướng - số có phần lắng dịu so với thời vua Lê chúa Trịnh. Một phần vua Quang Trung mải mê với việc dẹp thù trong, giặc ngoài, cho nên không còn thời giờ nghĩ đến tướng - số. Nhà Vua cũng không ban lệnh cấm tôn giáo, tướng - số, cho nên những người đi chùa, đền, xem tướng - số tùy ý, hành động tự phát. Nhà Tây Sơn tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802; Kinh đô ở Phú Xuân, Huế - Thừa Thiên và Phượng hoàng Trung đô, Vinh, Nghệ An. Triều vua này rất ngắn, chỉ có 3 đời vua, tổng cộng 24 năm: Nguyễn Nhạc (1778-1793); Nguyễn Huệ (Quang Trung - 1778-1792); Nguyễn Quang Toản (1793-1802).

- Thời Nguyễn Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Ánh, Gia Long), vấn đề tướng - số, lễ bái lại có phần nổi trội hơn so với thời vua Quang Trung. Tôn giáo lúc này xuất hiện hai dòng chính thống là Phật giáo và Cơ đốc giáo (bao gồm Thiên chúa giáo, đạo Tin lành, đạo Chính thống). Số người tin vào tướng - số, mệnh trời tăng lên đồng thời với việc xuất hiện các nhà tướng - số.

Triều Nguyễn Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Ánh, Gia Long) tồn tại từ năm 1802 đến năm 1945, Quốc hiệu là Việt Nam (Từ năm 1838, vua Minh Mạng đổi tên nước là Đại Nam), sau đó, lại trở về với tên nước Việt Nam; Kinh đô ở Huế - Thừa Thiên; có tất cả 13 đời vua, nhiều đời vua diễn ra rất ngắn, phản ánh “tính yểu” của Triều Nguyễn: Nguyễn Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh, Gia Long - 1802-1820); Nguyễn Thánh Tổ (Phúc Đảm, Minh Mệnh - 1820-1840); Nguyễn Hiến Tổ (Miên Tông, Thiệu trị - 1841-1847); Nguyễn Dục Tông (Hồng Nhậm, Tự Đức - 1847-1883); Nguyễn Dục Đức (Ưng Chân - 1883); Nguyễn Hiệp Hòa (Hồng Dật - 1883); Nguyễn Giản Tông (Ưng Đăng, Kiến Phúc - 1885); Nguyễn Hàm Nghi (Ưng Lịch, Hàm Nghi); Nguyễn Cảnh Tông (Ưng Xụy, Đồng Khánh - 1885-1888); Nguyễn Thành Thái (Bửu Lân, Thành Thái); Nguyễn Duy Tân (Vĩnh San, Duy Tân - 1907-1916); Nguyễn Hoằng Tông (Bửu Đảo, Khải Định - 1916-1925); Nguyễn Bảo Đại (Bảo Đại - 1926-1945).

- Thời chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ( nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập từ năm 1945, lấy Hà Nội làm Thủ đô, vấn đề tướng - số gần như bị lãng quên. Riêng vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng được thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “TÍN NGƯỠNG TỰ DO và Lương Giáo đoàn kết”1. Dưới chính thể dân chủ cộng hòa, chùa chiền, miếu mạo thỉnh thoảng có nơi mọc lên, nhưng so với các thời phong kiến, ít hơn rất nhiều. Riêng việc đi chùa, cúng lễ, nhiều nơi rất đông. Chùa Quán Sứ, Hà Nội và nhiều chùa, đền khác trong cả nước, ngày nào cũng nườm nượp người vào ra cúng lễ. Đầu xuân rất nhiều người đến xin quẻ, xin Âm Dương. Chẳng ai ngăn cấm được “làn sóng chùa chiền” đã, đang và sẽ còn diễn ra khắp nơi trong cả nước. Các nhà tướng - số không ít, nhưng đều hoạt động ngầm, không dám công khai, vì sợ nhà chức trách.

Chế độ dân chủ cộng hòa, người đứng đầu Nhà nước là Chủ tịch Nước.

Tính từ năm 1945 đến năm 2015, đã có 10 lượt Chủ tịch nước: Hồ Chí Minh (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, tuổi Tân Mão - từ 2-9-1945 đến 2-9-1969); Tôn Đức Thắng (tuổi Mậu Tý, từ 22-9-1969 đến 24-6-1976); Tôn Đức Thắng (tiếp từ 24-6-1976 đến 3-4-1980); Nguyễn Hữu Thọ (tuổi Canh Tuất, quyền Chủ tịch nước từ 3-4-1980 đến 25-6-1981); Trường Chinh (Đặng Xuân Khu, tuổi Mùi - từ 25-6-1981 đến 17-6-1987); Võ Chí Công (Võ Toàn, tuổi Nhâm Tý, từ 17-6-1987 đến 19-9-1992); Lê Đức Anh (từ 19-9-1992 đến 20-8-1997); Trần Đức Lương (tuổi Đinh Sửu, từ 24-9-1997 đến 20-6-2006); Nguyễn Minh Triết (tuổi Nhâm Ngọ, từ 20-6-2006 đến 20-7-2011); Trương Tấn Sang (tuổi Kỷ Sửu, từ 25-7-2011 đến ...)2.

Nhìn chung, dưới chế độ phong kiến, thuyết Ngũ Hành gây ảnh hưởng mạnh trong xã hội nước ta. Từ vua quan đến các tầng lớp nho sĩ thường bị chìm ngập trong số mệnh. Sóc đĩa để xin Âm Dương, bói quẻ xuất hiện khắp nơi, nhất là ở những nơi đền chùa, miếu mạo. Từ thế kỷ XIX, sự truyền bá các thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái càng được đẩy mạnh, càng được phổ biến rộng khắp, mà các nhà nho đóng vai trò nòng cốt. Vua Minh Mạng nghiên cứu rất sâu về vận số, Âm Dương, Ngũ Hành, Bát Quái, từ đó mà Ông nhận định các hạng quan lại trong Triều để có sự sắp xếp trong sử dụng. “Vua Thiệu Trị chăm lo việc cải cách bói toán sao cho giản tiện để dễ dàng phổ biến trong nhân dân”1. Năm 1860, vua Tự Đức khi giao trọng trách cho Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Cáp làm tướng cầm quân vào đánh quân Pháp ở Gia Định, đã sai quan khâm thiên chọn ngày lành, tháng tốt để xuất quân; lại sai mở quẻ bói xem bản mệnh các tướng ra trận sẽ thắng hay bại.

Năm 1871 (năm Tự Đức thứ 24), Nguyễn Trường Tộ đã có một bản điều trần dâng lên Nhà Vua, trong đó, Ông dùng thuyết Âm Dương, Ngũ Hành tương sinh tương khắc để chứng minh việc Pháp xâm chiếm nước ta và việc quân ta nổi lên chống lại chúng.

Qua những dẫn chứng trên đây cho thấy thuyết Âm Dương, Ngũ Hành đã chi phối trong đời sống tinh thần xã hội lúc ấy.

 

1 Xem  Thiệu Vi Hoa: 880 câu hỏi về thuật số, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2012, tr. 46.

2 Xem Thiệu Vi Hoa: 880 câu hỏi về thuật số, sđd, tr. 46.

3 Xem Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, của tác giả Hồng Phi Mô và Khương Ngọc Trân, Công ty  trách nhiệm hữu hạn Nhân Trí Việt giữ bản quyền dịch tiếng Việt, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008.

1 Dẫn theo Hồng  Phi Mô - Khương Ngọc Trân: Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd,  tr. 24.

2 Dẫn theo Hồng Phi Mô - Khương Ngọc Trân: Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd,  tr. 24,25.

1 Xem Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc của Hồng Phi Mô và Khương Ngọc Trân, sđd, tr. 25.

2 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 26.

3 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 26.

4 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 26.

5 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 26.

6 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 26.

1 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 26, 27.

2 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 27, 28.

3 Những chữ đặt trong dấu “...”, tôi (Đ.V) đều dẫn theo cuốn sách Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 29.

4 Mặc Gia (Mặc Tử, Mặc Địch - 479 - 381 trước Công nguyên), người sáng lập một trường phái triết học ở Trung Quốc cổ đại. Học thuyết của Mặc Tử đối đầu với học thuyết của Khổng Tử, khi Mặc Tử cho rằng, không có số mệnh tiền định, mà nó phụ thuộc vào việc con người sẽ thực hiện như thế nào những nguyên tắc “kiêm ái”, mà cơ sở của nó là “ý trời”. Ông kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ nhau, hãy lao động có ích, hãy từ bỏ bạo lực và chiến tranh, hãy tiến cử những người sáng suốt và xứng đáng để lãnh đạo đất nước, không kể đến địa vị của họ trong xã hội. Học thuyết của Mặc Tử thiên về chủ nghĩa thần bí, nhưng trong học thuyết của Ông cũng có một số yếu tố duy vật. Chẳng hạn, Ông đã khẳng định rằng, tri thức của con người nảy sinh từ chỗ nghiên cứu trực tiếp về thực tại. Sau này, trên cơ sở những tư tưởng duy lý của Mặc Tử, những người kế tục Ông đã xây dựng nên lý luận duy vật mộc mạc về nhận thức, là lý luận đã đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển tư tưởng triết học của Trung Quốc cổ đại. Từ thế kỷ II trước Công nguyên, trường phái Mặc Tử đã không còn như một trào lưu tư tưởng độc lập. Ngày nay, chúng ta nghiên cứu về học thuyết của Mặc Tử, thấy cũng có cái lý lẽ của Ông. Vì vậy, đừng vội vã phủ định sạch trơn học thuyết của Ông (Đ.V).

1 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr.30,31.

1 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc, sđd, tr. 31.

2 Những chữ tôi (Đ.V) đăt trong dấu “...” là đều dẫn theo sách “Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc”, sđd, tr. 29.

1 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc của Hồng Phi Mô và Khương Ngọc Trân, sđd, tr. 34.

1 Ngự sử là chức quan chuyên dùng lời lẽ để can gián nhà vua. Nhiều lần nhà lý số  Lý Hư Trung đã dùng thuật tướng - số để can gián nhà vua.

1 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc của Hồng Phi Mô - Khương Ngọc Trân, sđd, tr. 36,37.

2 Tác phẩm này hiện nay chưa được dịch ra tiếng Việt.

1 Dẫn theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc của Hồng Phi Mô - Khương Ngọc Trân, sđd, tr. 38.

1 Dẫn theo Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Thời đại, Hà Nội, 2010, tr. 40.

2 Lĩnh Nam chích quái là tác phẩm văn học dân gian Việt Nam, xuất hiện vào khoảng cuối thời Lý, đầu thời Trần. Người đời sau tiếp tục bổ sung. Trong Lĩnh Nam chích quái, có những chuyện thần thoại, gắn với nguồn gốc của dân tộc, như Truyện “Họ Hồng Bàng”, Truyện “Phù Đổng Thiên Vương”,  Phù  Truyện “Núi Tản Viên”, Truyện “Rùa vàng”, Truyện “Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không”,... (Xem “Lĩnh Nam chích quái” của tác giả Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh, Kiều Phú nhuận chính, Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc Sơn phiên dịch, Nxb Trẻ - Nxb Hồng Bàng, 2013).

3 Dẫn theo Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 65.

4 Dẫn theo Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 65.

1 Trần Thế Pháp: Lĩnh Nam chích quái, Nxb Trẻ - Nxb Hồng Bàng, 2013, tr. 40.

1 Dẫn theo Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 69.

1  Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 72. Tục truyền rằng, An Dương Vương là người đất Ba Thục.

1  Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 79.

2  Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 80.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư,  tập 1, sđd, tr. 43.

1  Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 193.

2  Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 194.

1 Thứ sử Hoan Châu là chức quan giám sát việc chính trị trong quận Hoan Châu.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 204.

3 Cầu Đàm Gia Loan, nay ở khu vực làng Điềm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

4 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 205.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 212.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 212.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 212.

1 Trần Thế Pháp: Lĩnh Nam chích quái,  sđd, tr.140.

1 Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, thì sông Ninh có thể là sông Ninh Giang, khúc sông Đáy ở khoảng xã Ninh Sơn, huyện Chương Đức, Hà Tây.

2 Xem Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 249, 250, 251.

1 Châu Cổ Pháp chính là huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh.

2 Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, chùa Tiên Sơn ở xã Tiên Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang).

3 Điện tiền chỉ huy sứ là chức chỉ huy một sứ quân tiên phong.

4 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 259.

5 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 257.

6 Chưa rõ chùa Lục Tổ ở đâu?

7 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 258.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 263, 264.

2 “Thất tinh” là 7 ngôi sao của chòm sao Bắc Đẩu, tượng trưng cho ngôi vua.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 284.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 285. “Thư số” là sách viết về tướng số.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđ d, tr. 285.

4 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 285.

5 Vua Lý Thánh Tông là con trưởng của vua Lý Thái Tông và cũng là cháu của vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn).

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 318. Hữu ty là viên quan trông coi việc cơm, áo, gạo, tiền thời phong kiến.

1 Thái sư là một chức quan thời phong kiến, đứng đầu hàng tam công.

1 Dẫn theo Lĩnh Nam chích quái của tác giả Trần Thế Pháp, Nhà Xuất bản Trẻ - Nhà Xuất bản Hồng Bàng, 2012, tr. 109.

2 Dẫn theo Lĩnh Nam chích quái, sđd, tr. 109.

3 Trong Đại Việt Sử ký toàn thư, đều ghi là “Lý Thái Tôn”.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 433.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 433.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 433.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 431. Bệ Hạ ở đây là Lý Chiêu Hoàng.

2 Đáng lẽ, vua đầu tiên của Nhà Trần phải là Trần Thái Tổ, nhưng vì có Trần Thủ Độ là người khai sáng Nhà Trần, cho nên Trần Cảnh chỉ lấy niên hiệu là Trần Thái Tông.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 436.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 436.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 436. Ý Lý Huệ Tông muốn nói đến Trần Thủ Độ.

3 Phế đế tức là Đế Nghiễn, do viên quan Lê Quý Ly gièm với Trần Nghệ Tông mà bị phế làm Linh Đức đại vương, rồi phải thắt cổ ở phủ Thái Dương. Trần Thuận Tông bị Lê Quý Ly ép phải nhường ngôi cho Thái tử Án là Thiếu Đế, sau bị Lê Quý Ly giết ở quán Ngọc Thanh. Sự việc này chứng tỏ lời nói của Lý Huệ Tông là đúng, đó là báo ứng.

4 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr.437. Thói chó lợn chỉ việc loạn luân trong Triều Trần. Đó là việc Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu đương có thai và phế Hoàng hậu Chiêu Thánh.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 478.

2 Linh Từ Quốc Mẫu là vợ của Trần Thủ Độ.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr.479.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 479.

3 Câu đương là người giữ chức dịch trong làng, chuyên giữ việc bắt bớ, giải đi.

4 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 479.

5 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 479.

6 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 479.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập, 1, sđd, tr. 465. Kỷ: mỗi kỷ là 12 năm. Bốn kỷ là 48 năm.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 465.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr.465,466.

1 GS Phan Huy Lê: Lịch sử và văn hóa Việt Nam - tiếp cận bộ phận, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2012, tr. 254.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 723.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 723.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1, sđd, tr. 751.

4 Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức: Tóm tắt niên biểu Lịch sử Việt Nam, sđd, tr.110,111.

1 Có tài liệu chép, Lê Lợi thọ 51 tuổi.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Thời đại, Hà Nội, 2010, tr. 5.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr. 6.

1 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr. 7.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr. 50.

3 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr. 79.

4 Chùa Côn Sơn còn gọi là chùa Tư Quốc, tương truyền là do nhà sư Pháp Loa làm.

1 Trung sứ là sứ của Nhà Vua sai ra ngoài làm một việc gì đó.

2 Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 2, sđd, tr. 183.

1 Triều Lê Sơ còn có Lê Nghi Dân (1459).

1 Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr. 8,9.

1 Tiệp Dư không rõ là ai. Bản chữ Hán không ghi tên thật của Bà; riêng bản dịch của Ngô Tất Tố thì ghi là Dương Ngọc Hoan, có thể đây là phỏng đoán.

2 Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí, sđd, tr. 10.

3 Dẫn theo Vương Nhị Thị Mười: Phong thủy địa lý Tả Ao chính tông, Nxb Cà  Mau, 2009, tr. 12.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 9.

2 Khi tôi đang viết cuốn sách này (2014), thì ông Trương Tấn Sang vẫn đang làm Chủ tịch nước. Theo quy định thì đến năm 2016 thì Ông hết nhiệm kỳ.

1 Đoàn Thanh Bình: Tử vi với số phận con người, sđd, tr. 35.