Trọn đời viết về Đảng, Bác Hồ
Hồng Dự
(Bài đăng báo Quân đội Nhân dân và
báo Điện tử Quân đội Nhân dân, số ra ngày 12-7-2025)
Miệt mài
nghiên cứu và sáng tạo, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng, nguyên Phó viện trưởng Viện Hồ
Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng; nguyên Vụ trưởng, Chánh văn phòng, Thư ký
khoa học chuyên trách tại Hội đồng Lý luận Trung ương, đã dành cả cuộc đời để
viết về Đảng, Bác Hồ. Những trang viết của ông không chỉ là sử liệu mà còn là
lời tri ân, nguyện trung thành với lý tưởng cộng sản, rất sống động.
Người kể chuyện bằng tấm lòng tôn kính
Chiều hè nắng đổ, ngồi trong phòng bỗng tiếng điện
thoại reo. Tôi nhấc máy rồi bước ra ngoài hiên, niềm vui bất ngờ như làn gió
mát xua đi cái oi bức của tiết trời chính hạ. Người chuyển quà đã trao cho tôi
cuốn sách của Phó giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng với tựa đề “Hồ Chí Minh và Đảng ca” xuất bản năm 2025, viết về tiểu sử Chủ
tịch Hồ Chí Minh và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lần theo từng trang viết, tôi mải miết đọc và cảm nhận
ông không đơn thuần nghiên cứu, trình bày những tư liệu sử học mà còn là một người
kể chuyện về Đảng, Bác Hồ bằng tấm lòng tôn kính.
Từ trước đến nay, chưa có ai viết về tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam bằng thơ lục bát dài 6.526 câu với hơn 1.000 chú thích rất có giá trị. Tập sách thơ này dày 600 trang, khổ giấy lớn, rất đồ sộ, hoành tráng. Đây là tập thơ trữ tình và triết lý, tập thơ thứ bảy. Thơ trữ tình để nói về tình cảm của con người đối với con người, đối với dân tộc. Thơ triết lý là thơ khoa học, mô tả đúng con người, sự kiện. Ông muốn đem sự nhạy cảm của thơ triết lý để phân tích, lý giải về những con người trong một tổ chức. Tấm lòng với Đảng quang vinh, Bác Hồ kính yêu được ông ký gửi qua hàng nghìn câu thơ chan chứa ân tình.
Sau khi đọc cuốn sách viết bằng thơ, tôi đến thăm ông
khi nắng mai phủ nhẹ trên những tán bằng lăng nở đầy sắc tím. Nhà ông ở đường
Hoàng Quốc Việt, Hà Nội. Khác với ồn ào ngoài phố, tư gia của ông trong Khu
chung cư các Ban Đảng Trung ương tĩnh lặng với rất nhiều sách. Ở tuổi 84, tai
ông nghe hơi khó, nhưng khi hỏi chuyện thì ông say sưa kể. Cuộc đời ông tự
nguyện đến với cách mạng, miệt mài công tác, say mê nghiên cứu, viết về Đảng,
Bác Hồ và cách mạng Việt Nam.
Ông Đàm Đức Vượng sinh năm Nhâm Ngọ (1942) tại ngôi
làng cổ Dịch Diệp của tỉnh Nam Định (nay là tỉnh Ninh Bình), vì thế, có lúc ông
lấy bút danh trong các bài báo là Thành Nam. Cuốn sách "Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su miền Đông Nam Bộ", ông cũng lấy bút danh là Thành Nam. Hồi nhỏ, cậu bé Vượng thường được
thân mẫu là bà Phạm Thị Miến đưa đi vãn cảnh, nghe kinh Phật tại chùa Dịch Diệp
và chùa Cổ Lễ cho tâm trong, trí sáng. Năm 1954, khi thân phụ là ông Đàm Tấn
Trác mở xưởng đúc trên thành phố Nam Định, nam sinh Đức Vượng được đưa lên học
trường Diên Hồng. Thế rồi biến cố gia đình xảy ra năm 1956, thân phụ mất, xưởng đúc của ông bị phá sản, cuộc
sống khó khăn, Vượng xin mẹ cho nghỉ học, ra Hà Nội làm thuê cho Xưởng đúc gang,
đồng, nhôm Đông Thành, địa điểm tại số nhà 23, phố Cát Linh. Thanh niên Vượng chăm chỉ làm việc dù công
việc rất nặng nhọc, hao tổn nhiều sức lực. Mỗi khi đổ gang nóng chảy vào khuôn,
anh đã suy nghĩ: Từ đống quặng để thành vật dụng có ích phải qua lò luyện nhiệt
độ rất cao. Suy rộng ra, con người muốn làm nên sự nghiệp, phải chịu khó học
hành, luyện rèn qua nhiều môi trường khắc nghiệt mới hy vọng thành công.
Trong thời gian làm việc tại Xưởng Đông Thành, anh đã viết được một tập thơ lục bát, dày 300 trang, nhan đề: "Bài ca người thợ luyện kim". Rất tiếc, bản thảo này đã bị thất lạc do chiến tranh, gia đình phải đi sơ tán nhiều nơi, trong khi anh lại đang tại ngũ.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đoàn Thanh niên, tháng
2-1960, Đàm Đức Vượng nhập ngũ và được biên chế vào Đại đội 1, Tiểu
đoàn 1 (Tiểu đoàn Phủ Thông) Trung đoàn 141 (Trung đoàn Ba Vì), Sư đoàn 312 (Sư
đoàn Chiến Thắng, nay thuộc Quân đoàn 12), Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngày
luyện tập trên thao trường, đêm hành quân dã ngoại, những bước chân của người
chiến sĩ trẻ đã in dấu qua bao núi đồi. Khi nghỉ giải lao, để động viên đồng
đội, anh đọc câu thơ: “Hành quân dã ngoại qua Trung Giã/Vào giữa mùa đông gió
rét sương/ Trái tim người lính không băng giá/Sẽ ấm dần lên trong tình
thương”.
Đồng chí Vượng rất chịu khó khổ rèn, miệt mài học tập
chính trị, quân sự; bắn súng giỏi, trở thành xạ thủ; chiến sĩ thi đua toàn quân. Anh làm tốt công tác Đoàn với cương vị Bí thư Chi đoàn, vận
động thanh niên học tập và làm việc theo gương Bác Hồ. Tích cực rèn luyện phấn
đấu, tháng 8-1962, Tiểu đội trưởng Đàm Đức Vượng vinh dự được kết nạp Đảng trong quân đội khi
vừa tròn 20 tuổi. Đến năm 2022, ông nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
Sau 3 năm rèn luyện trong quân đội, do sức khỏe yếu, Đàm Đức Vượng phải xuất ngũ. Về Hà Nội, anh tìm đến Xưởng Đông Thành để xin tiếp tục làm việc. Nhưng trong thời gian anh ở bộ đội, Xưởng Đông Thành đã nhập vào Xí nghiệp cơ khí Đồng Tháp, thành Xí nghiệp công tư hợp doanh Đồng Tháp, địa điểm tại số nhà 20, phố Hàng Tre, Hà Nội. Ban Tổ chức Xí nghiệp cơ khí Đồng Tháp thấy anh là bộ đội trở về, lại là đảng viên, nên đã vui vẻ tiếp nhận ngay. Tại đây, anh mang hết sức
lực để sản xuất và công tác, nên được đồng nghiệp tín nhiệm. Thế rồi, đồng chí
Vượng được bầu làm Bí thư Chi bộ kiêm Chánh văn phòng Đảng ủy Xí nghiệp. Sau một thời gian làm việc tại Xí nghiệp cơ khí Đồng Tháp, anh được tổ chức điều động về làm việc tại Xí nghiệp cơ khí Trần Phú, địa điểm tại thôn Nam Dư Hạ, xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, Hà Nội, làm Trưởng Ban Tổ chức - Lao động - Tiền lương. Thời gian này, anh được tổ chức cử đi học lý luận chính trị tại Trường Đảng Lê Hồng Phong của
Thành ủy Hà Nội. Kỷ niệm về ngôi trường mang tên Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, học
viên Đức Vượng đã viết bài về đồng chí Lê Hồng Phong, đăng trên tờ tạp chí. Thời gian học tập, anh còn viết nhiều bài về đảng viên và vai
trò lãnh đạo của Đảng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiệu trưởng Trường Đảng Lê
Hồng Phong cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp cho anh đạt loại giỏi cả 3 môn: Lịch
sử Đảng và xây dựng Đảng; Đường lối, chính sách; Kinh tế chính trị học.
Nhiều năm, anh làm cộng tác viên tích cực của Đài
Truyền thanh Hà Nội và Báo Hà Nội mới với Chuyên mục “Người tốt, việc tốt”. Sau
này, anh được điều động về làm phóng viên chuyên nghiệp tại Đài Truyền thanh Hà Nội (nay là Đài
Phát thanh - Truyền hình Hà Nội), mang thẻ Nhà báo số 1089/TNB, do Vụ Báo chí Trung ương cấp ngày 14-11-1974. Những năm máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, Đức
Vượng đi khắp nơi tác nghiệp. Có khi anh đạp xe về thăm tổ ấm tại khu nhà lợp
giấy dầu trong khuôn viên Xí nghiệp May 10. Ngồi cùng vợ con bên mâm cơm đạm
bạc, anh kể về lần tránh bom thoát chết khi qua cầu Long Biên. Dẫu có khó khăn,
hiểm nguy nhưng anh luôn thể hiện sự lạc quan, một niềm tin không lay chuyển
khi cuộc đời gắn chặt với Đảng và cách mạng.
Thấm đẫm lý tưởng cộng sản
Lúc là cán bộ ở cơ sở, Đàm Đức Vượng miệt mài
học thêm bổ túc văn hóa. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông bước vào học đại học tại chức suốt 4 năm, vừa học vừa làm. Sau 4 năm học đại học, ngày 20-12-1980, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội Phan Văn Hạp căn cứ Quyết định số 557/Tch, ngày 7-8-1978 của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo), về việc "Cấp bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp ngành văn học tại chức số V0071 cho sinh viên Đàm Đức Vượng", tốt nghiệp vào loại xuất sắc kỳ thi năm học 1978. Trong thời gian này, ông rất chịu khó học ngoại ngữ với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, đều lĩnh bằng C. Để rồi ông
bước vào con đường lý luận với bản lĩnh kiên cường và niềm say mê bất tận.
Nhiều người đã hỏi vì sao một người sống kham khổ từ nhỏ, sớm phải nghỉ học để
mưu sinh giữa phố xá Hà Nội bằng nghề đúc lại có thể tiến xa trên con đường học
thuật? Và rồi những thành quả ông đạt được đã trả lời điều đó. Ông đã dấn thân
và tận hiến khi thấm đẫm trong mình lý tưởng cộng sản cao đẹp.
Bước rẽ ngoặt quyết định cuộc đời khi ông được tổ chức
điều động về làm việc tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương. Hành trang
mang theo là tri thức, niềm tin tuyệt đối vào Đảng và sự kính yêu vô hạn với
Bác Hồ để người cán bộ vững bước trên con đường mới vẻ vang, nhưng cũng lắm
nhọc nhằn. Năm 1976, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban
Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, sau khi đọc một số bài viết của Đức Vượng
về xây dựng Đảng, đã gửi lời khen.
Làm việc tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương một thời gian, Đàm Đức Vượng được Cơ quan cử đi học nghiên cứu sinh lịch sử Đảng tập trung tại Trường Chuyên khoa lịch sử Đảng trong 4 năm (1980-1984). Trong thời gian làm nghiên cứu sinh, Đức Vượng được Nhà trường cử làm Lớp trưởng và được bầu làm Bí thư Chi bộ của Lớp. Đức Vượng tốt nghiệp nghiên cứu sinh với luận văn: "Tìm hiểu quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam". Luận văn đạt loại xuất sắc, 9,5 điểm, điểm cao nhất Lớp. Sau khi tốt nghiệp nghiên cứu sinh, Đức Vượng làm đơn xin bảo vệ luận án. Nhưng vì lúc ấy, Trường Chuyên khoa Lịch sử Đảng không có trong danh sách của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho bảo vệ luận án, nên ông lại phải xin sang Viện Sử học làm nghiên cứu sinh thêm 2 năm nữa (1984-1986), mới đủ tiêu chuẩn bảo vệ luận án. Như vậy, thời gian làm nghiên cứu sinh của ông mất 6 năm, trong đó có 4 năm tập trung tại Trường Chuyên khoa Lịch sử Đảng và 2 năm tại chức tại Viện Sử học. Ông nói: "Con đường bảo vệ luận án của tôi thật là gian khổ".
Cùng với nghiên cứu lịch sử Đảng, lý luận Mác - Lênin, đồng chí Đàm Đức Vượng tích cực nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1986, sau 6 năm làm nghiên cứu sinh, ông bảo vệ luận án Phó tiến sĩ sử học (năm 1998 nâng cấp thành Tiến sĩ) với đề tài “Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin”. Luận án phân tích về chủ nghĩa yêu nước của Nguyễn Ái Quốc và từ chủ nghĩa yêu nước, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hội đồng chấm Luận án cho ông toàn những nhà khoa học nổi tiếng: GS Nguyễn Vịnh, GS Đặng Xuân Kỳ, GS Văn Tạo, GS Phan Huy Lê, GS Đinh Xuân Lâm, GS Phan Ngọc Liên... Luận án bảo vệ thành công. Giáo sư Nguyễn Vịnh, Viện trưởng Viện Mác - Lênin (sau bổ sung là Viện Mác - Lênin - Hồ Chí Minh), Chủ tịch Hội đồng chấm luận án, bắt tay nghiên cứu sinh Đàm Đức Vượng và nói: “Chú là người đầu tiên ở Viện Mác - Lênin và ở Việt Nam bảo vệ thành công luận án về đề tài Hồ Chí Minh”.
Ngày 12-6-1986, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, GS Nguyễn Đình Tứ ký Quyết định số 447/QĐ-QLKH "Tặng học vị Phó tiến sĩ khoa học sử học cho nghiên cứu sinh Đàm Đức Vượng". Học vị cao nhất ở Việt Nam lúc này là Phó tiến sĩ, chưa có Tiến sĩ. Mãi tới năm 1998, Chính phủ mới có Quyết định cho bảo vệ Tiến sĩ thay cho Phó tiến sĩ. Quyết định ghi rõ những Phó tiến sĩ trước đây đã bảo vệ tại Việt Nam đều được công nhận là Tiến sĩ.
Ngày 3-3-1992, Chủ tịch Hội đồng phong chức danh khoa học, GS,TS Trần Hồng Quân, ký Quyết định số 02/HV-CDKH, về việc "Phong chức danh Phó giáo sư khoa học sử học cho Phó tiến sĩ khoa học Đàm Đức Vượng".
Có bằng cấp hẳn hoi, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng càng say sưa nghiên
cứu khoa học và viết sách, đặc biệt viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông tâm sự:
“Khi viết về Bác Hồ, trong lòng tôi bừng lên sự hào hứng lạ kỳ. Bởi lẽ, Người
là hiện thân của những gì cao đẹp nhất, có sức truyền cảm hứng và lay động lòng
người”. Mỗi tác phẩm ông viết ra và xuất bản như những đóa sen ngát hương kính
dâng lên Bác Hồ và Đảng. Tác phẩm đầu tiên là “Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu sử và
sự nghiệp”. Sau đó là các tác phẩm: “Hành trình cứu nước của Bác Hồ”, “Hồ Chí Minh với
vấn đề cán bộ”, “Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài”, “Những
dấu ấn lịch sử về Hồ Chí Minh và Đảng do Người sáng lập”, “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam”, “Chủ tịch Đảng và các Tổng Bí thư của
Đảng”, "Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su miền Đông Nam Bộ", “Những nhà cách mạng Việt Nam thời dựng Đảng”, "Xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Thực trạng và giải pháp", "Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020", "Việt Nam từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ đổi mới", "Lịch sử Việt Nam gắn liền với lịch sử dòng họ Việt Nam", "Con đường theo Bác" (Những lần tái bản đều lấy tên là "Đường Bác Hồ chúng ta đi"), Hồi ký, Hoàng Quốc Việt kể, Đức Vượng ghi... Tất cả đã viết và xuất
bản 24 tác phẩm dày trang về lịch sử và lý luận cùng hàng chục công trình nghiên cứu khoa học,
hàng trăm bài nghiên cứu đã được đăng trên các báo và tạp chí ở trong nước và quốc tế. Ông còn là Thư ký khoa học của nhóm viết "Hồi tưởng" của Tổng Bí thư Trường Chinh, rất tiếc, đang viết thì Tổng Bí thư Trường Chinh qua đời, nên Hồi tưởng không thực hiện được; soạn thảo Đề cương cho cuốn Hồi ký của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chấp nhận, rất tiếc, khi bắt đầu viết thì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh qua đời, nên Hồi ký đó không thực hiện được; viết bài cho Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, theo gợi ý của các vị đó, bài viết đều được các vị đó chấp nhận. Ông cũng là người nước ngoài đầu tiên trên cương vị Trưởng Đoàn Chuyên gia Việt Nam tại
Lào, biên soạn và xuất bản sách về Tổng Bí thư, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Thủ tướng rồi Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Caysỏn Phômvihản, đóng góp cho quan hệ hữu
nghị đặc biệt Việt – Lào.
Bên cạnh những tác phẩm về Bác Hồ và Đảng, ông còn viết nhiều sách về các đồng chí lãnh đạo của Đảng như: “Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng”, “Hà Huy Tập, Tổng Bí thư của Đảng”, “Tổng Bí thư Trường Chinh”, "Nguyễn Đức Cảnh - người con của giai cấp công nhân Việt Nam",... Ông đứng tên chủ biên: Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 5, 1995), Văn kiện Đảng Toàn tập (tập 49, 2007); đồng Chủ biên với PGS,TS Nguyễn Quý: Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 1, 1998)... cùng với hàng chục tác phẩm viết chung.
Mỗi tác phẩm của ông đều có sự kết hợp chặt chẽ giữa lịch sử và lôgích. Ông quan niệm lịch sử và lôgích đều nằm trong sự thống nhất biện chứng, phụ thuộc lẫn nhau, tác động vào nhau; lịch sử để chứng minh, còn lôgích để phân tích lý luận trên cơ sở những sự kiện do lịch sử cung cấp. Ông cho rằng, nếu tác phẩm chỉ có lịch sử mà không có lôgích là lịch sử chay và nếu chỉ có lôgích mà không có lịch sử là lôgích suông.
Tất cả các bản thảo, trong đó có những bản thảo dày hơn một nghìn trang, ông đều tự đánh máy lấy, vừa nghĩ vừa đánh, rất chuyên nghiệp.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, ông học tin học một cách say sưa, do đó, khai thác được nhiều tài liệu quý. Ngày 18-4-1998, ông được cấp Giấy chứng nhận số 777/ĐT-CNTT của Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin, GS,TS Bạch Hưng Khang, là đã "Hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản sử dụng các phần mềm vi tính". Các môn thi tin học đều đạt điểm 9 đến điểm 10, xếp loại giỏi.
Trong thời gian công tác tại Viện Xuất bản Kinh điển và Văn kiện Đảng, ông có điều kiện nghiên cứu sâu về các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, nên đã viết được nhiều bài về lý luận Mác - Lênin.
Ngoài sách lịch sử, lý luận, ông còn viết và xuất bản
cuốn sách dày trang rất có giá trị: “Khoa học về lý số” (Dự đoán khoa học về
con người và cuộc đời), phân tích sâu sắc về số phận con người và cuộc đời trên cơ sở nghiên cứu khoa học; cùng 7 tập thơ trữ tình và thơ triết lý, trong đó có 6 tập
đã được xuất bản; trở thành Nhà sử học, Nhà lý số, Nhà thơ.
Trong thời gian học tập bổ túc chính trị và tiếng Nga tại Viện Hàn lâm khoa học xã hội, Liên Xô (1989) và thời gian công tác ở nước ngoài (1999-2002), làm Bí thư thứ nhất kiêm Phó Bí thư Đảng ủy nước của một Đại sứ quán, Vụ trưởng Ban Cán sự Đảng ngoài nước, PGS,TS Đàm Đức Vượng đã tranh thủ viết nhiều bài về chủ nghĩa quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thời gian công tác ở nước ngoài, ông đã viết và xuất bản cuốn sách dày trang: "Những ngày ở Séc".
Trên cương vị Chủ nhiệm đề tài, ông đã bảo vệ thành công hai đề tài cấp nhà nước: “Xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng – Thực trạng và giải pháp” (Mã số: ĐTĐL-2005/16) và “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020” (Mã số: KX.04.06.10); 1 đề tài cấp bộ (Ban Đảng Trung ương): "Những nhân tố quốc tế và nước sở tại tác động ảnh hưởng đến công tác đảng và công tác quần chúng ở ngoài nước" (Mã số: KXBĐ-05); 2 đề tài cấp quốc tế: "Văn kiện quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào" (5 tập) và "Hồi ký quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào" (3 tập). Tất cả các đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, cấp quốc tế, khi nghiệm thu, đều đạt loại xuất sắc và đều được xã hội hóa bằng việc xuất bản thành sách. Ngoài ra, ông còn tham gia biên soạn nhiều đề tài cấp nhà nước, trong đó có 1 đề tài do GS Đặng Xuân Kỳ làm Chủ nhiệm, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Thực hiện xuất sắc hai đề tài cấp quốc tế, cùng với việc nghiên cứu và biên soạn công trình "Cayxỏn Phômvihản - Tiểu sử và sự nghiệp", Phó giáo
sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng được Chủ tịch nước Lào tặng Huân chương Lao động Hạng
nhì và Chủ tịch nước Việt Nam cũng tặng Huân chương Lao động Hạng nhì; được Thủ
tướng Chính phủ Lào tặng Bằng khen và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng tặng
Bằng khen. Như vậy, cùng một lúc, ông nhận được 2 Huân chương Lao động Hạng nhì của Chủ tịch nước Lào và Chủ tịch nước Việt Nam tặng và 2 Bằng khen của Thủ tướng Lào và Thủ tướng Việt Nam tặng; 13 lần đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua.
Những tác phẩm của Phó giáo sư, Tiến sĩ
Đàm Đức Vượng đều có mạch nguồn đó là tình yêu sâu sắc với Đảng Cộng sản Việt
Nam và Bác Hồ, là niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng cộng sản mà ông đã theo từ tuổi nhỏ. Ông là
người viết có tâm, đã chắt lọc từ thực tiễn cách mạng cùng bao biến thiên của
cuộc đời thành những trang sách, dòng thơ sống động, sâu sắc.
Trong lời tự bạch nghỉ hưu năm 2007, Phó giáo sư, Tiến
sĩ Đàm Đức Vượng đã viết: “Tóc xanh nay đã bạc màu/ Mắt xanh nay đã ngả màu
thời gian”. Thế nhưng, ông không “lão giả an chi” mà đứng ra thành lập Viện
Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (ISSTH) trực thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, làm Viện trưởng, sau đó là Chủ
tịch Hội đồng khoa học ISSTH. Thời gian này ông đã viết và xuất bản cuốn sách "Lịch sử Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực", tổng kết về hoạt động của ISSTH trong 10 năm. Ông hướng dẫn bảo vệ thành công 3 luận án tiến
sĩ, 3 luận văn thạc sĩ, tham gia 50 hội đồng chấm luận án tiến sĩ và hội đồng
nghiệm thu đề tài khoa học cấp nhà nước. Có nhiều đóng góp xuất sắc về nghiên
cứu khoa học, tháng 1-2022, PGS,TS Đàm Đức Vượng vinh dự được Đại học Apollos, Mỹ,
trao tặng bằng Giáo sư danh dự. Như vậy, từ một anh lính binh nhì, anh công nhân,
ông đã trở thành Phó giáo sư, Tiến sĩ, rồi Giáo sư, Tiến sĩ, một nhà khoa học
tầm cỡ, đầy tài năng và nghị lực.
Giáo sư, Tiến sĩ Đàm Đức Vượng trải qua nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học - chính trị, với hơn 60 năm đi theo
lý tưởng cộng sản và cũng ngần ấy năm viết về Đảng, Bác Hồ. Ông là tấm gương
sáng về lòng trung thành với lý tưởng cộng sản, say mê nghiên cứu khoa học,
khiêm nhường trong đời sống, là hiện thân sinh động cho một điều giản dị: “Đảng
viên là người không ngừng học tập và cống hiến, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào”.
Cuộc đời ông gặp rất nhiều sóng gió, nhưng cũng rất vinh quang và thành công!