Mới cập nhật

Cần đánh giá đúng công trình “Tư bản luận” của Các Mác

 GS,TS Đàm Đức Vượng

 

Trên trang mạng quốc tế gần đây có một học giả công bố bài viết: “Đánh giá công trình Tư bản luận của Karl Marx”. Bài viết có những nhận định sai về bộ sách này của C.Mác, như viết: “Đúng là nhiều ý tưởng trong Tư bản luận của Karl Marx đã bị chỉ trích và xem là không còn phù hợp với thực tế kinh tế hiện đại. Khi đối chiếu với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ XX và XXI, các lý luận của Marx gặp phải nhiều thách thức lớn, cả về lý thuyết lẫn thực tiễn”. “Nhìn chung, dù Tư bản luận có những phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản thời kỳ Marx, nhưng nhiều khía cạnh của nó đã không còn chính xác khi đối chiếu với thực tế xã hội và kinh tế hiện đại. Những thay đổi trong hệ thống kinh tế, chính trị và xã hội đã chứng minh rằng lý thuyết của Marx, nếu áp dụng cứng nhắc, sẽ không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay”…

Những nhận định trên đây về bộ Tư bản là không thỏa đáng. Vì vậy, tôi thấy cần phải có sự trao đổi lại với Tác giả bài viết “Đánh giá công trình Tư bản luận của Karl Marx” nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Tôi nghĩ rằng, những nhận định của C.Mác trong bộ Tư bản về chủ nghĩa tư bản vẫn còn phù hợp với thực tế kinh tế hiện đại và độ chính xác của nó vẫn rất cao. Trong bộ Tư bản, C.Mác đã phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở đó mà phác đồ ra những nét cơ bản về chủ nghĩa cộng sản dưới góc độ kinh tế chính trị học. 


Các Mác

Đi vào cụ thể, bộ sách Tư bản của C.Mác gồm 3 tập, tập 1, tập 2, tập 3, được dịch từ bộ sách Bình luận bộ Tư bản của Các Mác của Đ.I. Rôdenbe do Nhà xuất bản Sách Kinh tế xã hội Liên Xô xuất bản tại Mátxcơva năm 1961 và được Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, xuất bản lần đầu tiên vào cuối những năm 1960 đầu những năm 1970. Năm 2012, bộ sách đồ sộ này được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật Việt Nam tái bản lần thứ nhất.

Lần theo lịch sử, năm 1867, bộ Tư bản, (Tập 1), xuất bản bằng tiếng Đức, ra đời, tiếp đó là Tập 2 và Tập 3 lần lượt được xuất bản. Những bản thảo còn lại của bộ Tư bản được Ph.Ăngghen sử dụng để xuất bản Tập 2 năm 1885 và Tập 3 năm 1894 (sau khi C.Mác mất). Từ khi được xuất bản cho đến nay, tác phẩm này vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới.

Tập 1 gồm 7 phần, 15 chương, nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản. Tập 1 bình luận nhiều vấn đề liên quan đến tư bản: hàng hóa, tiền tệ, coi đó là tế bào đơn giản nhất của của cải tư sản; sự chuyển hóa của tiền thành tư bản; sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối; sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối; sự sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; tiền công; quá trình tích lũy tư bản.

Nội dung chủ yếu của Tập 1 bộ Tư bản là phân tích mối quan hệ sản xuất có tính chất quyết định của chủ nghĩa tư bản – quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê.

Trong quá trình phát triển sản xuất của nền sản xuất hàng hóa, diễn ra sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, nền kinh tế hàng hóa giản đơn phát triển thành nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, dựa trên sự bóc lột công nhân làm thuê.

C.Mác đã phát hiện ra thứ hàng hóa mà người công nhân bán và nhà tư bản mua là sức lao động, tức là năng lực lao động, chứ không phải bản thân lao động như các nhà kinh tế chính trị học tư sản đã quan niệm. Giá trị sử dụng sức lao động là thuộc tính tạo ra giá trị của nó, hơn nữa lại tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động.

Tập 2 gồm 3 phần, 21 chương, giúp bạn đọc nắm được nhiều vấn đề: những biến hóa hình thái của tư bản và tuần hoàn của những biến đổi hình thái ấy; chu chuyển của tư bản; tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội.

Tập 3 gồm 3 phần, 21 chương, nghiên cứu về toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, như sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận; sự chuyển hóa lợi nhuận thành lợi nhuận trung bình; quy luật tỷ suất lợi nhuận; sự chuyển hóa tư bản hàng hóa và tư bản tiền tệ thành tư bản kinh doanh tiền tệ; sự phân chia lợi nhuận thành lợi tức và lợi nhuận doanh nghiệp.

Có thể nói bộ Tư bản là toàn bộ cuộc đời của C.Mác, cùng với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, bộ Tư bản là một tác phẩm chủ yếu của chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Theo C.Mác, thì tư bản không phải là tiền, không phải là máy móc, công cụ, nguyên liệu, hàng hóa, mà là quan hệ sản xuất của xã hội hay một giá trị để tạo ra giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.

C.Mác lại bắt đầu công trình nghiên cứu của mình từ sự phân tích hàng hóa, coi đó là tế bào đơn giản nhất của tư bản. Việc nghiên cứu hàng hóa là một điều kiện hoàn toàn tất yếu để phân tích những hình thái cao hơn và phức tạp hơn của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa, diễn ra sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, nền kinh tế hàng hóa giản đơn phát triển thành nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, dựa trên sự bóc lột công nhân làm thuê.

C.Mác đã phát hiện điều bí mật của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và ông đã đưa ra một học thuyết khoa học về giá trị thặng dư, tức là phần giá trị do công nhân tạo ra vượt quá giá trị lao động mà họ được trả công. Nhà tư bản chiếm đoạt phần chênh lệch này, dẫn đến sự bóc lột lao động. Trong phần còn lại của ngày lao động (thời gian lao động thặng dư), thì người công nhân tạo thêm một giá trị ngoài giá trị sức lao động của mình, tức giá trị thặng dư.

C.Mác cho rằng, thứ hàng hóa mà người công nhân bán và nhà tư bản mua là sức lao động, tức là năng lực lao động, chứ không phải bản thân lao động. Cũng như mọi hàng hóa khác, sức lao động có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị là cái mà người ta dùng làm cơ sở để xem xét một vật có ích lợi tới mức nào đối với con người. Giá trị sử dụng là những vật có thể thỏa mãn được nhu cầu của người ta, như cơm gạo thỏa mãn như cầu ăn uống. Với tư cách là hình thái chuyển hóa của giá trị và giá cả sức lao động, tiền công hiện ra như là giá cả lao động. Với tư cách là chuyển hóa của giá trị và giá cả sức lao động, và do đó, nhà tư bản che đậy quá trình bóc lột. Bề ngoài có vẻ như là người công nhân bán lao động và toàn bộ lao động đều được trả công. Nhưng trong thực tế thì tiền công bao giờ cũng thấp hơn tổng giá trị của sản phẩm lao động do lao động làm thuê tạo ra. Tư liệu sản xuất không tạo ra giá trị mới, mà trong quá trình sản xuất, lao động sống mới là nguồn sinh ra giá trị mới.

C.Mác phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là tư bản dùng để mua sắm tư liệu sản xuất, tự nó trong quá trình sản xuất, không tạo nên sự biến đổi về lượng của giá trị. Tư bản khả biến là tư bản dùng để thuê mướn công nhân và có thể tạo ra sự biến đổi về giá trị. Việc phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến đã phản ánh quá trình bóc lột lao động làm thuê và đồng thời tạo ra biểu hiện về lượng của bóc lột công nhân dưới hình thức tỷ số giữa giá trị thặng dư với riêng tư bản khả biến mà thôi, chứ không phải là toàn bộ tư bản đã đầu tư. Tỷ số đó, ông gọi là tỷ suất giá trị thặng dư, hay tỷ suất bóc lột. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì tỷ suất bóc lột càng tăng, đồng thời, những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản càng sâu sắc thêm và trở nên gay gắt hơn, dẫn đến những cuộc đấu tranh mang tính chất giai cấp và tính chất xã hội.

Sau khi xem xét thực chất của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa và sự phát triển của việc sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác đã phân tích một cách khoa học tích lũy tư bản chủ nghĩa, tức là việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản. Tích lũy là sự gom góp để có nhiều tiền, nhiều cơ sở vật chất hơn. “Như vậy, tư bản càng tích lũy lại, thì những đống của cải to lớn, sự xa hoa, tệ ăn bám, nạn hoang phí của các giai cấp bóc lột lại càng tăng lên ở một cực của xã hội tư sản, còn ở cực kia, thì ách bóc lột, nạn thất nghiệp và đời sống không bảo đảm của nhân dân lao động ngày càng tăng lên”1, dẫn đến những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa.

Trong bộ Tư bản, ngoài việc phân tích về chủ nghĩa tư bản thế giới, dưới góc độ kinh tế chính trị học, C.Mác đã phác thảo những vấn đề của chủ nghĩa cộng sản. C.Mác phân tích rằng, chủ nghĩa tư bản sớm hay muộn rồi cũng sẽ được thay thế bằng chế độ cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Tất nhiên, C.Mác cho rằng, không phải ngày một, ngày hai là có ngay xã hội cộng sản, mà phải có một thời gian dài, thậm chí rất dài, mới có thể thiết lập chủ nghĩa cộng sản tại một số quốc gia và trên thế giới.

Sự nhận định của C.Mác về chủ nghĩa cộng sản xuất phát một cách hữu cơ từ sự phân tích những xu hướng phát triển sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản. C.Mác nói ông không thể nào đưa ra một bức tranh chi tiết về xã hội cộng sản tương lai, nhưng những ý kiến của ông về chủ nghĩa cộng sản đã nêu rõ những nét cơ bản của phương thức đó. Những ý kiến ấy rất đáng được chú ý trong thời đại mà nội dung cơ bản của nó do sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản quyết định. Việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không thể diễn ra một cách tự phát. Muốn thế, cần phải có những hành động cách mạng, phải dùng cách mạng đánh đổ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản và giai cấp công nhân và những người cách mạng phải giành lấy chính quyền. Luận điểm sự cần thiết phải có cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một kết luận hết sức quan trọng rút ra từ học thuyết kinh tế chính trị học của C.Mác. Trong bộ Tư bản, C.Mác nêu nguyên lý cơ bản của xã hội cộng sản chủ nghĩa là “sự phát triển đầy đủ và tự do của mỗi một cá nhân. Sự phát triển này giả định phải cải tạo lại xã hội loài người một cách có ý thức”2. Con người dưới chủ nghĩa cộng sản là con người phát triển toàn diện. Một chức năng và đặc điểm hết sức quan trọng của xã hội cộng sản chủ nghĩa là sự phân phối lao động xã hội một cách có ý thức; mở rộng tái sản xuất để thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu không ngừng tăng lên của tất cả các thành viên trong xã hội. Vì vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội vô cùng tốt đẹp.

Vấn đề đặt ra hiện nay là từ những quan điểm, nội dung của bộ Tư bản mà phát triển lên cho phù hợp với thời đại hiện nay.  

Đó là những nội dung cơ bản của bộ Tư bản của C.Mác. Đây là bộ sách rất dày, mỗi tập có tới hàng trăm trang, nên rất khó tóm tắt trong một vài trang.

------

 

1. Các Mác Tiểu sử, Viện Mác – Lênin thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; bản tiếng Nga, Nxb Chính trị quốc gia, Mátxcơva; bản dịch tiếng Việt, Trần Việt Tú dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tập 2, tr. 125.

2. C.Mác và PhĂng ghen: Toàn tập, tập 23, tr. 605.