Mới cập nhật

Suy nghĩ về vấn đề phát triển nhân lực của Việt Nam hiện nay

imagesPGS,TS Đàm Đức Vượng

  1. Cơ sở lý luận về phát triển nhân lực Việt Nam hiện nay:


Cơ sở lý luận về phát triển nhân lực của Việt Nam hiện nay đã có văn kiện Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng. Bên cạnh đó, Chính phủ đã công bố một loạt văn bản pháp quy về xây dựng nhân lực chất lượng cao. Cụ thể là ngày 19-4-2011, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 579/QĐ-TTg, phê duyệt "Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020". Tiếp sau đó là hàng loạt văn bản của Chính phủ đặt vấn đề trực tiếp hoặc có liên quan đến vấn đề phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2015, như Chỉ thị số 18/CT/TTg, ngày 30-5-2012 của Thủ tướng Chính phủ, về việc "Triển khai thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội giai đoạn 2011-2015"; Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020"; Quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11-4-1912 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt "Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020"; Quyết định số 711/QĐ-TTg, ngày 13 (15?)- 6-2012 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020"... Đó là những văn bản mang tính pháp quy, mà trong khi nghiên cứu không thể không nhắc đến. Có điều là do có nhiều văn bản, nên đôi khi các văn bản không ăn nhập với nhau, như cùng một thời gian 2011-2020, nhưng có văn bản viết "thời kỳ", có văn bản viết "giai đoạn"? Vậy "thời kỳ" hay "giai đoạn"? Đây lại là cả vấn đề lý luận về phân kỳ mà các nhà soạn thảo văn bản chưa tính đến. Ở đây, cũng phải làm rõ khái niệm "nhân lực" và "nguồn nhân lực", không nên lẫn lộn hai khái niệm này. Nhân lực là cái của hiện tại, còn nguồn nhân lực là cái của tương lai. Cũng không nên lẫn lộn giữa "nhân lực" và "lao động". "Nhân lực" là "sức người" (danh từ), còn "lao động" là "việc làm" (động từ).
Về thuật ngữ khoa học, có thể gọi chung là "nhân lực", trong đó có "nguồn nhân lực". Một vấn đề nữa đặt ra là đã có văn kiện mới của Đảng (văn kiện Đại hội XII), vậy các chiến lược trên (đều ra văn bản từ năm 2010 đến năm 2012, trước Đại hội XII là từ 3-5 năm) có chỉnh sửa, bổ sung không? Nếu có, thì chỉnh sửa, bổ sung những vấn đề gì, nội dung gì, cũng cần làm rõ.

Mọi vấn đề phát triển nhân lực Việt Nam hiện nay tập trung vào phát huy "nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội" như trong văn kiện Đại hội XII của Đảng (tr.434) đã ghi.
Quyết định 579 của Chính phủ xác định tương đối rõ về mục tiêu tổng quát phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ (giai đoạn) 2011-2020 là "đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó, một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới".
Muốn trở thành nền tảng, nhân lực Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm từ A đến Z, phải đưa nhân tố con người vào chiến lược phát triển. Khi nói đến con người, phải tính đến sức khỏe, tầm vóc, trí tuệ, ý chí, năng lực, phẩm chất, có tinh thần sáng tạo và kỹ năng nghề nghiệp; cần tính đến nhân lực (đội ngũ công chức, viên chức) trong khu vực nhà nước và trong khu vực tư nhân, nhân lực trong giáo dục và đào tạo, nhân lực trong khoa học và công nghệ, nhân lực trong các doanh nghiệp. Sự phát triển đồng bộ, toàn diện sẽ tạo lên xung lực mạnh để phát triển nhân lực. Huy động sức mạnh của toàn dân vào công cuộc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là vấn đề cần được quan tâm.
Nếu biết khơi nguồn tốt "vốn người", chúng ta sẽ có "vốn tiền". Người sinh ra tiền, và sau đó, tiền lại có tác dụng trở lại đối với người, làm cho người có đủ điều kiện vật chất và tinh thần để làm ra tiền và cứ thế, tạo thành vòng xoáy phát triển của mỗi người và từ mỗi người tạo thành vòng xoáy phát triển của xã hội. Vì vậy, mối quan hệ giữa "người - tiền - tiền - người" là mối quan hệ mang tính quy luật và tính nhân quả trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế

Khoa học và công nghệ càng phát triển, người và tiền càng phụ thuộc lẫn nhau, con người cũng càng phụ thuộc lẫn nhau. Đất nước không có tiền sẽ rơi vào suy thoái, nhưng đất nước không biết sử dụng đồng tiền hoặc lũng đoạn đồng tiền cũng sẽ rơi vào suy thoái. Không phải tất cả vì tiền, nhưng nếu không có tiền thì không làm được việc gì. Nhưng một xã hội mà xây dựng được những con người lãnh đạo, quản lý giỏi, những chuyên gia, tổng công trình sư, nhà tham mưu tài năng, thì những con người ấy sẽ làm ra được nhiều tiền cho xã hội. Vì vậy, việc xây dựng chất lượng con người và chất lượng cuộc sống là rất quan trọng, mang tính quyết định cho sự phát triển xã hội.

  1. Nhìn sang các nước giải quyết vấn đề nhân lực:


Đã có nhiều cuốn sách, bài nghiên cứu viết về vấn đề nhân lực ở các nước. Trên mạng internet cũng đăng tải rất nhiều bài viết về vấn đề nhân lực của thế giới và nước sở tại. Hiện nay, có một số nước nổi lên về kết quả phát triển nhân lực như Mỹ, Anh, Canađa, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore,... Chung quy lại, có thể khái quát các loại hình sau đây:
Một là: Loại hình xây dựng hệ thống luật và chính sách về phát triển nhân lực và tạo nguồn nhân lực, trong đó, cụ thể hóa vấn đề nhân lực và nguồn nhân lực chung của quốc gia và của từng ngành, từng địa phương, đơn vị; ngành, địa phương, đơn vị cứ theo "barem" mà thi hành.

Về vấn đề này, có nước như Hàn Quốc đã ban hành nhiều đạo luật và luật xoay quanh vấn đề nhân lực và nguồn nhân lực, như Đạo luật Lương tối thiểu, Đạo luật Bảo hiểm việc làm, Đạo luật Chính sách tuyển dụng cơ bản, Đạo luật Tuyển dụng công bằng, Đạo luật Xúc tiến việc làm và tái hòa nhập ngành nghề cho người tàn tật,...
Hai là: Nhiều nước cân đối được nhân lực trong cả nước của họ, bằng việc phân bố nhân lực chuyên môn cho từng ngành, địa phương, đơn vị cơ sở, tạo thế cân bằng cho phát triển đồng đều; khắc phục hiện tượng bất bình đẳng, thân quen trong việc bố trí nhân lực, làm mọi người hài lòng về việc làm của mình.
Ba là: Họ giáo dục cho công dân nước của họ là không có sự đối xử phân biệt về ngành nghề. Vì vậy, người dân họ coi nghề quét rác, thu dọn vệ sinh nơi công cộng, giá trị công việc (theo ngành nghề) cũng ngang bằng với một quan chức nhà nước. Về vấn đề này sẽ khắc phục được tình trạng chọn ngành nghề và cũng khắc phục được nhận thức nghề này hơn nghề kia, nghề này danh giá hơn nghề kia. Luật Bình đẳng giới cũng là một "kênh" tạo sự cân bằng và công bằng trong sự phát triển nhân lực tại một số nước.

Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, tại một số nước đang rơi vào tình trạng yếu kém trong phát triển nhân lực của nước họ. Một số nước đã phải thừa nhận tình trạng "thừa đại học", "thiếu thợ giỏi chuyên môn". Đó là hậu quả của việc phát triển không cân đối.

  1. Tình hình vấn đề nhân lực của Việt Nam hiện nay:


Nhân lực và nguồn nhân lực ở đây bao gồm toàn bộ lực lượng lao động của cả nước, nhưng điểm nhấn là công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ, công chức, viên chức, nhà doanh nghiệp, sinh viên, học sinh và lực lượng bảo vệ đất nước.
Về số liệu, theo "Niên giám Thống kê năm 2014" (Nhà Xuất bản Tổng cục Thống kê vừa xuất bản), thì dân số cả nước đến ngày 31-12-2014, có 90.728.900 người, trong đó, thành thị là 30.035.400 người, nông thôn là 60.693.500 người. Có hai thành phố đông dân nhất của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh là 7.981.900 người và Hà Nội là 7.087.700 người. Lực lượng lao động của cả nước từ 15 tuổi trở lên là 53.748.000 người (năm 2011 là 51.398.400 người), trong đó, thành thị là 16.525.500 người (năm 2011 là 15.251.900 người), nông thôn là 37.222.500 người (năm 2011 là 36.146.500 người). Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành kinh tế đã qua đào tạo là 18,2% (năm 2011 là 15,4%). Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2014 là 2,10%, chia ra thành thị là 3,40% và nông thôn là 1,49%.

Năm 2014, cả nước có 435 trường đại học và cao đẳng (năm 2011 là 419 trường). Sinh viên tốt nghiệp năm 2014 là 532,1 nghìn người (năm 2011 là 398,2 nghìn người)...
Văn kiện Đại hội XII của Đảng (tr. 272), ghi rõ đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%, trong đó, có bằng cấp chứng chỉ đạt 25%.
Theo "Diễn đàn kinh tế thế giới", Việt Nam hiện có 66.094.000 người trong độ tuổi lao động; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam tương đương với 70,77% và tỷ lệ dân số tham gia lực lượng lao động là 77,5%.

Số liệu trên đã phần nào phản ánh thực chất nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay. Có thề phân tích thực chất nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay:

- Nhờ đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp, nên nguồn nhân lực theo đó mà có sự nhận thức lại và sự quan tâm nhiều hơn của Đảng và Nhà nước, đưa vấn đề phát triển nguồn nhân lực và phát triển con người làm chủ thể của nền kinh tế - xã hội. Nhận thức này đã tạo chuyển biến ở các ngành, các cấp trong tiến trình phát triển nhân lực. Sự tác động của chính sách đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.

- Công tác quản lý nhà nước về nguồn nhân lực được quan tâm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả.

Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức có nhiều tiến bộ; đã triển khai kế hoạch việc làm trong cả nước; đổi mới cơ chế, chính sách tuyển dụng, đánh giá, phân loại, bổ nhiệm, luân chuyển. Chất lượng và cơ cấu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có sự chuyển biến tích cực.
- Lực lượng sản xuất phát triển đã tạo đà cho nguồn nhân lực phát triển, thể hiện ở sự phát triển của đội ngũ công nhân và đội ngũ trí thức. Điểm nổi trội của phát triển kinh tế trong thời gian qua là sự tác động của các lực lượng lao động vào trong sản xuất và kinh doanh. Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phát triển đã tác động mạnh đến sự phát triển của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề đồng bộ, quan hệ nhiều chiều, tác động qua lại giữa sự phát triển kinh tế với sự phát triển nguồn nhân lực.
- Tiếp tục có bước phát triển về số lượng nhân lực. Có người nói rằng, không cần tính đến số lượng nhân lực, mà hãy chú trọng đến chất lượng nhân lực. Nói như vậy chưa đúng. Để có bước phát triển về chất lượng nhân lực và nguồn nhân lực, trước hết, cần phải có bước phát triển về số lượng và qua đó mới chuyển hóa từ những thay đổi về số lượng thành những thay đổi về chất lượng. Tuy nhiên, cũng không nên quan niệm thuần túy là chỉ cần tăng số lượng nhân lực, chứ không có sự thay đổi về chất lượng. Vấn đề số lượng và chất lượng nguồn nhân lực phải được xem trọng cả hai, trong đó, chất lượng là quan trọng nhất. So với năm 2011, thì đến năm 2014, lực lượng lao động của cả nước từ 15 tuổi trở lên ở thành thị là 16.525.500 người (năm 2011 là 15.251.900 người); ở nông thôn là 37.222.500 người (năm 2011 là 36.146.500 người). Đây rõ ràng có sự tăng trưởng về số lượng lao động.
- Do sự mở mang các ngành nghề kinh tế đã tạo ra một nguồn nhân lực khá dồi dào. Nhiều công ty, xí nghiệp, nhà máy được hình thành mới, đòi hỏi phải có lực lượng lao động hùng hậu, đáp ứng tương xứng, do đó mà nguồn nhân lực phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 9 tháng của năm 2015, cả nước đã có 68.347 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 420,9 nghìn tỷ đồng, tăng 28,5% về số doanh nghiệp so với 9 tháng của năm 2014, theo đó, đã tạo việc làm mới trong 9 tháng của năm 2015 cho 999,3 nghìn người, tăng 25,7% so với 9 tháng của năm 2014. Số doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, nay quay trở lại hoạt động trong 9 tháng của năm 2015 là 12.848 đơn vị, đã giải quyết việc làm trở lại cho khoảng 300 nghìn người. Số công ty của người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng đang có chiều hướng tăng lên, thu hút được một lực lượng lao động có tay nghề cao. Người Hàn Quốc tính rằng, Việt Nam là nước an toàn, nên có thể sinh cơ lập nghiệp lâu dài.
- Trong cuộc cạnh tranh và chạy đua khốc liệt trong nền kinh tế thị trường hội nhập, nhiều địa phương bứt phá nhanh về tạo nguồn nhân lực. Trong số các địa phương phát triển có hiệu quả nhất phải kể đến thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2014, lực lượng lao động tại Thành phố là 4.190.525 người, chiếm 51,7% tổng dân số của Thành phố. Là trung tâm kinh tế của cả nước, tập trung nhiều doanh nghiệp lớn và có ưu thế về giáo dục, đào tạo, nên Thành phố đã thu hút được nhiều nguồn lao động có tay nghề cao trong khu vực dịch vụ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thường ở mức cao hơn trung bình cả nước. Cụ thể năm 2014 đạt 69,9% (so với 38% của năm 2013). Mấy năm nay, kinh tế Thành phố phát triển đồng đều, đa dạng và mang tính sáng tạo. Do có chính sách thông thoáng, nhiều nhà đầu tư cỡ lớn ở nước ngoài đã đầu tư kinh doanh tại thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố đang cần tuyển dụng 25 nghìn lao động thuộc các ngành nghề. Sự trỗi dậy của các địa phương trong tiến trình phát triển nguồn nhân lực, phục vụ cho các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội rất đáng được ghi nhận.
- Về vấn đề "vốn con người", Việt Nam cũng đã có bước tiến nhất định. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Người là vốn quý nhất". Thế giới hiện đang tập trung nghiên cứu về vốn con người.

Vốn con người được định hình ở khả năng, tài năng thông qua giáo dục và phát triển các kỹ năng của con người, khai thác ở tất cả các giai đoạn trong vòng đời của con người. Việt Nam hiện được xếp thứ 59 thế giới về chỉ số "vốn con người" do "Diễn đàn kinh tế thế giới" bình chọn, với số điểm 68,48/100. Phần Lan đứng đầu bảng về chỉ số vốn con người năm 2015, với 86/100 điểm. Những vị trí tiếp theo lần lượt thuộc về Na Uy, Thụy Sĩ, Canađa, Nhật Bản, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, New Zealand, Bỉ.
Bên cạnh những mặt được ghi nhận là kết quả trên đây về phát triển nguồn nhân lực trong thời gian qua, cũng phải nói rằng, về phát triển nguồn nhân lực của đất nước còn nhiều hạn chế, yếu kém, xin nêu một số hạn chế, yếu kém nhất:

- Trước hết, phải nói rằng, nhận thức về nguồn nhân lực chưa đầy đủ, thông suốt, thậm chí có người còn hiểu méo mó vấn đề này, cho rằng, chỉ có cơ quan nhà nước mới đủ sức, đủ trình độ nghiên cứu về nguồn nhân lực, trong khi thực chất lực lượng nghiên cứu về nguồn nhân lực của khu vực ngoài công lập lại rất sung mãn, vì đây là nơi hội tụ các nhà khoa học có danh tiếng, có kinh nghiệm đã về hưu. Mục đích của nhận thức về nguồn nhân lực là đạt tới chân lý khách quan. Trong quá trình nhận thức, con người thu nhận được những khái niệm về thực trạng của nguồn nhân lực hiện nay, trên cơ sở đó mà có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn. Xa rời chân lý khách quan, nhất định sẽ dẫn đến chủ quan duy ý chí. Trong thời gian qua, các tổ chức ngoài công lập, nhất là các viện nghiên cứu về nhân tài, nhân lực và về con người, lao động đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển nguồn nhân lực, thể hiện ở những đề tài cấp quốc gia, quốc tế, ở những công trình nghiên cứu khoa học về nguồn nhân lực, giảng dạy về nguồn nhân lực, ở các báo cáo khoa học về con người và nguồn nhân lực. Rất tiếc là các cơ quan công quyền, các cấp lãnh đạo, nhất là cấp lãnh đạo ở tầm vĩ mô, lại rất ít quan tâm đến các tổ chức này. Phải nói rằng, sân chơi này không chỉ dành riêng cho các viện (cơ quan) công lập, mà nó là sân chơi chung cho tất cả những ai nghiên cứu về nó, trong đó có các viện (cơ quan) ngoài công lập. Sơ bộ thống kê các bài nghiên cứu, sách viết về nhân lực và nguồn nhân lực ở các tổ chức ngoài công lập đã được công bố ở trong nước và ngoài nước chiếm tỷ lệ khoảng 60% so với 40% ở các tổ chức công lập.
- Thiếu hẳn sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, bộc lộ hiện tượng "cha chung không ai khóc", "đánh trống bỏ dùi"; chưa có một cơ quan nào đứng ra làm trung tâm tập hợp các lực lượng nghiên cứu về nhân lực và nguồn nhân lực, đã dẫn đến tình trạng nghiên cứu nhất phương, mạnh ai nấy làm, chụp giật, rời rạc, chắp vá. Nhìn chung, vẫn còn trong vòng luẩn quẩn nhận thức và sự thiếu kết hợp về nghiên cứu nhân lực và nguồn nhân lực cũng như trong việc định chính sách phát triển nhân lực và nguồn nhân lực. Có người nói rằng, tình trạng chung hiện nay là "mở" trong lời nói, nhưng lại "đóng" trong thực thi.
- Trong thời gian qua, việc phát triển nhân lực và nguồn nhân lực không được cân đối, nhất là "đầu vào" trong giáo dục đại học và cao đẳng vênh với "đầu ra" trong tìm kiếm việc làm.

Hiện nay, còn khoảng trên dưới 100 nghìn sinh viên đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng vẫn chưa tìm được việc làm. Nhiều gia đình nông thôn bán cả nhà đất, trâu bò, lợn gà để nuôi cho con ăn học đại học, nhưng khi ra trường vẫn không xin được việc làm, "tay trắng" vẫn hoàn "trắng tay". Tình trạng đổ xô vào học đại học vẫn tiếp diễn, trong khi đó, lại sao nhãng đến việc giáo dục nghề nghiệp cho học sinh và gia đình học sinh, dẫn đến tình trạng thừa cử nhân, thiếu công nhân có tay nghề cao.
- Lực lượng lao động ở khu vực kinh tế nhà nước với khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển không đều, theo hướng nghiêng về tư nhân, trong khi Cương lĩnh của Đảng lại là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thí dụ, tính đến năm 2014, lực lượng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước là 5.473.500 người, kinh tế ngoài nhà nước là 45.214.400 người, kinh tế khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 2.056.600 người (Số liệu rút trong Niên giám Thống kê 2014, Nhà Xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2015). Vì vậy, nếu xét về tiêu chí lực lượng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước ít hơn nhiều so với lực lượng lao động trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Nguyên lý của chủ nghĩa xã hội là kinh tế nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo và hiển nhiên, lực lượng lao động trong khu vực kinh tế nhà nước cũng phải đông hơn so với lực lượng lao động trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Nhưng, đây lại là quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường. Có người nói rằng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng mới chỉ dừng lại ở "lý luận", còn trong thực tiễn lại phát triển theo chiều hướng khác. Đây là một thực tế mà ta phải đối mặt với nó, làm sao bảo đảm cho lý luận phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trở thành hiện thực.

- Nguồn nhân lực đã qua đào tạo là một lợi thế cạnh tranh khi tham gia vào cộng đồng kinh tế thế giới. Nhưng thử hỏi vấn đề đào tạo nghề ở nước ta hiện nay đang ở vào tình trạng nào?

Hiện nay, cả nước có khoảng trên dưới 1.300 cơ sở dạy nghề. Tuy nhiên, hệ thống dạy nghề còn nhiều bất cập, giáo viên dạy nghề còn thiếu và yếu (thiếu khoảng 50.000 người); việc tuyển sinh vào học nghề còn nhiều khó khăn; không ít học sinh học nghề vào trường học nghề, chỉ vài tháng sau, bỏ ra ngoài làm tư. Có khoảng 70% cơ sở vật chất, thiết bị của các trường dạy nghề cũ kỹ, lạc hậu và thiếu. Vì không có học sinh vào học nghề, nhiều cơ sở dạy nghề đã phải đóng cửa.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc phân theo ngành kinh tế như nông nghiệp, khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng, vận tải, thông tin và truyền thông,... phát triển cũng không đồng đều.
-         Trong nguồn nhân lực, vai trò của đội ngũ công chức, viên chức là rất quan trọng, nhưng đang lại là bất cập. Cơ cấu công chức, viên chức chưa hợp lý về số lượng và chất lượng; chức danh ngạch, nghề nghiệp, trình độ, độ tuổi, dân tộc, giới tính, nhất là tương quan cơ cấu giữa các cơ quan với nhau và giữa các cơ quan trung ương và cơ quan địa phương. Chưa xác định rõ đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu cung cấp dịch vụ công của từng ngành, từng lĩnh vực, từng khu vực cụ thể để làm cơ sở xây dựng kế hoạch cơ cấu công chức, viên chức phù hợp. Khâu đánh giá và sử dụng công chức, viên chức làm chưa tốt.

-         Đội ngũ công chức, viên chức (gọi chung là những người làm công ăn lương) phát triển không cân xứng với các thành phần lao động khác trong xã hội. Cũng theo số liệu thống kê, đến năm 2014, những người làm công ăn lương là 18.801.200 người, trong khi chủ cơ sở sản xuất kinh doanh lại là 1.102.200 người và tự làm là 21.534.200 người, lao động gia đình là 11.298.600 người,...
Những hạn chế, yếu kém trên đây là do khâu tổ chức chưa tốt, nhất là tổ chức thực hiện chính sách về nguồn nhân lực; tinh thần trách nhiệm của các cơ quan chức năng chưa cao; chưa có sự gắn kết bền vững giữa các khâu tạo nguồn nhân lực; trình độ của những người làm công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi về lĩnh vực này.

Những yếu kém này làm cho tình hình nhân lực Việt Nam vẫn đang trong vòng luẩn quẩn, chưa thấy sự rõ ràng trong một hệ thống luật, chính sách và sự minh bạch trong thực thi.

  1. Định hướng và giải pháp cho vấn đề phát triển nhân lực Việt Nam hiện nay:Theo Quyết định 579 của Chính phủ đã nêu trên, thời kỳ (giai đoạn) 2011-2020, phấn đấu đến năm 2020 đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nhân lực như sau:


Chỉ tiêu                                               năm 2010  năm 2015  năm 2020
I/Nâng cao trí lực và kỹ năng lao động
l/Tỉ lệ lao động qua đào tạo(%)                    40,0           55.0          70,0

2/Tỉ lệ lao động qua đào tạo                        25,0           40,0          55,0
học nghề(%)

3/Số SV đại học, cao đẳng trên
10.000 dân (SV)                                          200           300           400

4/Số lượng dạy nghề đạt                               --              5              >10
đẳng cấp quốc tế(trường)

5/Số trường đại học xuất sắc                          --           -                >4
trình độ quóc tế (trường)

6/Nhân lực có trình độ cao trong các lĩnh vực đột phá (người)

- Quản lý nhà nước, hoạch định chính sách

và luật quốc tế                                         15.000        18.000    20.000

- Giảng viên đại học, cao đẳng                  77.500     100.000     160.000

-Khoa học-công nghệ                              40.000       60.000     100.000

-Y tế- chăm sóc sức khỏe                          60.000     70.000       80.000

-Tài chính-ngân hàng                                   70.000    100.000   120.000

-Công nghệ thông tin                                 180.000   350.000     550.000
II/Nâng cao thể lực nhân lực
1/ Tuổi thọ trung bình (năm)                        73               74          75

2/Chiều cao trung bình thanh niên (mét)    >1,61          >1,63      >1,65

3/Tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em                    17,5           <10,0      <5,0
dưới 5 tuổi (%)
Xem biểu bảng trên, hình như chưa có tổng kết năm 2010 và năm 2015.

Trong Quyết định 579 nêu 7 quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển, trong đó, nhấn mạnh đến "phát triển nhân lực trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011- 2020 phát huy vai trò quyết định của yếu tố con người, phát triển nhân lực là khâu đột phá đểm thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội". Đây là mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế - xã hội với phát triển chiến lược con người.
Chương trình phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam nên tập trung vào các mũi nhọn như nhân lực trong các lĩnh vực: giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; công nghệ thông tin; nhân lực trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp; y tế; kinh tế; công nghiệp, nông nghiệp, doanh nghiệp; giao thông vận tải; lao động có tay nghề cao; lĩnh vực văn hóa; báo chí và xuất bản; quốc phòng; an ninh; ngoại giao. Đây toàn là những mũi nhọn của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những lĩnh vực này đòi hỏi ở lòng nhiệt tình và tri thức của nhà lãnh đạo, nhà quản lý, các chuyên gia, cán bộ, công chức, viên chức, trí thức, công nhân, nông dân, sinh viên, học sinh và lực lượng lao động. Toàn bộ sự phát triển về nguồn nhân lực của giai đoạn tiếp theo 2016-2020 phải phục vụ tích cực cho việc phát triển kinh tế để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.

Phương hướng phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn tiếp theo đã có trong "Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020".  Về những giải pháp phát triển nhân lực, trong Quyết định 579 đưa ra những giải pháp đột phá và những giải pháp khác.  Giải pháp đột phá nhấn mạnh đến đổi mới nhận thức về phát triển và sử dụng nhân lực, nhấn mạnh đến việc quán triệt quan điểm con người là nền tảng, là yếu tố quyết định nhất trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước và sự hưng thịnh của mỗi tổ chức, đơn vị; đánh giá, sử dụng, đãi ngộ nhân lực phải dựa vào năng lực và kết quả, hiệu quả công việc; đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản quản lý nhà nước về phát triển và sử dụng nhân lực; xây dựng bộ tiêu chí về phát triển nhân lực và sáng tạo của các địa phương và cấp quốc gia; đẩy mạnh phân cấp, thực hiện quyền tự chủ, nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nhân lực trên cơ sở quản lý nhà nước và giám sát của xã hội; tập trung xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm về đào tạo, sử dụng và bố trí nhân sự, trọng dụng nhân tài.
Giải pháp khác, nhấn mạnh đến việc xây dựng và triển khai Chiến lược phát triển giáo dục và Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ (giai đoạn) 2011-2020; đào tạo nhân lực các vùng, miền và nhóm đặc thù; phát triển và phát huy các giá trị văn hóa, dân tộc của người Việt Nam; đổi mới chính sách sử dụng nhân lực; huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển nhân lực đến năm 2020; tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về nhân lực.Giải pháp đột phá trong Quyết định 579, nhìn chung, tôi chưa thấy gì gọi là "đột phá".
Riêng về giải pháp cho vấn đề này, qua nghiên cứu, tôi thấy:

- Phải thật sự đổi mới tư duy về phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm tính khoa học, tính cụ thể và tính phát triển. Đã đến lúc chúng ta phải đưa khoa học vào phát triển nguồn nhân lực, trở thành khoa học về nhân tài, nhân lực. Nếu không có khoa học tác động vào, thì việc phát triển nguồn nhân lực sẽ chỉ là tự phát, mò mẫm, chủ quan. - Cần tạo bước đột biến về chính sách, thể chế để huy động lực lượng lao động tối ưu trong cả nước, biết cách tạo ra một nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng được nhu cầu cho các ngành cần đến. Chính sách và thể chế về nguồn nhân lực ở Việt Nam phải phù hợp với con người Việt Nam và đặc điểm Việt Nam.
- Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với phát triển kinh tế, mô hình tăng trưởng, cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp đại cơ khí, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hình ảnh của các lĩnh vực đời sống xã hội, hình ảnh nào cũng có những con người đáp ứng đầy đủ công việc của lĩnh vực đó.
- Để đáp ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, dứt khoát phải nâng cao chất lượng trên cơ sở vẫn tiếp tục phát triển số lượng nguồn nhân lực. Việt Nam hiện nay đã là thành viên của Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TTP và là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN, điều đó đòi hỏi rất cao về chất lượng nhân lực, vì chỉ có chất lượng nhân lực mới tạo ra được chất lượng của sản phẩm; đồng thời, mới có cơ hội đi xuất khẩu lao động sang các nước thuộc TTP.
- Xây dựng mô hình cạnh tranh cao về phát triển nguồn nhân lực giữa Việt Nam với các quốc gia và giữa các ngành, các lĩnh vực trong nước với nhau. Trong kinh tế, nếu thiếu tính cạnh tranh, lập tức hàng hóa sản xuất ra sẽ không bán được bởi giá thành cao dẫn đến giá bán cao, chất lượng hàng hóa thấp, mẫu mã xấu. Vì vậy, cạnh tranh trong kinh tế thị trường phải trở thành tất yếu. Muốn cạnh tranh trong kinh tế thị trường, trước hết, phải nghĩ ngay đến cạnh tranh trong nhân lực và tạo nguồn nhân lực.
- Tạo dựng thị trường nhân lực (hoặc thị trường lao động) trong cả nước. Thị trường này làm nhiệm vụ chuyển đổi lao động từ nơi này sang nơi khác, từ nước này sang nước khác, làm cả nhiệm vụ xuất khẩu và nhập khẩu lao động. Từ trước tới nay, chúng ta chỉ nói đến xuất khẩu lao động, mà không nói đến nhập khẩu lao động, nhất là nhập khẩu lao động những tổng công trình sư, kỹ sư, chuyên gia của các nước công nghiệp vào làm việc tại Việt Nam. Đây chính làmột trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hàng hóa của Việt Nam còn thấp. Nay cần khắc phục. Phải từ bỏ nhận thức cho rằng, thị trường nhân lực là nơi buôn bán lao động, mà xác định đây chỉ là nơi luân chuyển, xuất khẩu và nhập khẩu lao động.
- Nên có sự khoanh vùng phát triển nguồn nhân lực, vực dậy những vùng phát triển kém thành những vùng phát triển khá, trong đó, ngoài nguồn nhân lực ở nơi thành thị, cũng cần chú ý đến phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn, phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội chiếm khoảng từ 30-40% như trong văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu. Phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn phải gắn với việc xây dựng nông thôn mới.

- Phải tính đến giải pháp về chất lượng sinh con của người Việt Nam hiện nay. Xét cho cùng, chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc trước hết từ bào thai trong bụng người mẹ. Có người nước ngoài nói rằng, chất lượng sinh con của người Việt Nam hiện nay là thấp, nhất là ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đẻ ra những đứa con ốm yếu, còi cọc, thiếu dinh dưỡng, thì làm sao mà có được nguồn nhân lực khỏe mạnh, sức vóc trong tương lai. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nâng cao chất lượng sinh con lên, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
- Cần có sự gắn kết giữa gia đình - nhà trường - xã hội để tạo ra nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng cao cho đất nước. Sự gắn kết này nhằm giáo dục cho mỗi thành viên nước nhà có ý thức, sự phấn đấu, rèn luyện, vươn lên xây dựng con người khỏe mạnh, tầm vóc, trí tuệ, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước.
- Phải đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi, nghiên cứu về nguồn nhân lực và nhân lực, nhân tài; có khả năng nắm bắt và khả năng phân tích, tổng kết, khả năng đề xuất về phát triển nguồn nhân lực của đất nước trong tương lai.

Muốn đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, chúng ta không thể thổi "tiếng kèn ngập ngừng" về phát triển nhân lực và tạo nguồn nhân lực, mà phải thổi "tiếng kèn tiến lên", phấn đấu quyết liệt, chung tay, chung sức cùng làm, có như vậy, chỉ số nhân lực của Việt Nam mới có những bước phát triển mới.

Đi vào cụ thể, qua nghiên cứu, tôi đề nghị cần thực hiện một số giải pháp như sau:
Một là: Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm nguồn tài nguyên thay thế, gọi là "tài nguyên nguồn nhân lực", hoặc tài nguyên con người. Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức và chất lượng nhân lực thành lợi thế cạnh tranh trên phương diện toàn cầu. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, mang tính xã hội; là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, của nhà trường, của doanh nghiệp, của gia đình cũng như của bản thân mỗi người lao động. "Đây chính là thể hiện quan điểm phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội vì con người và do con người, là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững".
Hai là: Mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn xã hội về phát triển nhân lực Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát động phong trào thi đua yêu nước tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần giúp cho mọi người hiểu rõ về các chính sách phát triển nhân lực. Vận động các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực để sử dụng với chất lượng ngày càng cao.
Ba là: Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân lực, việc làm, giáo dục, đào tạo, chính sách tiền lương, khen thưởng, đãi ngộ; chính sách trọng dụng chuyên gia, tham mưu, kỹ sư, tổng công trình sư, nhà thiết kế, tạo mẫu, phát minh, gọi chung là nhân tài, chính sách về môi trường, điều kiện, phương tiện làm việc; chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội; chính sách cho các cơ quan khoa học bán công lập, ngoài công lập (NGO). Tổ chức tốt việc thực hiện các chính sách đó. Cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, có chế độ ưu đãi cho người học.
Bốn là: Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhân lực; đổi mới phương pháp giáo dục, quản lý nhân lực, thấu tình đạt lý, nhìn rõ đúng sai, kịp thời rút kinh nghiệm về quản lý nhân lực. Tổ chức bộ máy quản lý nhân lực từ trung ương đến địa phương. Nhân sự cho bộ máy này phải là những chuyên gia giỏi về nghiên cứu nhân tài, nhân lực trong và ngoài biên chế nhà nước. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ của bộ máy này là tư vấn, tham mưu, đề xuất, thu thập, phân tích các số liệu về nguồn lực ở tất cả các ngành, các cấp.
Năm là: Tiến hành điều tra, khảo sát thường xuyên về nhân lực và chất lượng nhân lực ở tất cả các ngành, các cấp, địa phương và cả nước; bảo đảm cân đối cung cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước và trong từng ngành, từng cấp, từng địa phương.
Sáu là: Đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế, chủ yếu là hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảy là: Đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo và dạy nghề từ trung ương đến địa phương; tổ chức hợp lý hệ thống cấp bậc đào tạo; thực hiện phân cấp quản lý đào tạo giữa bộ, ngành, địa phương; quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề. Khuyến khích thành lập các trường đại học, cao đẳng, tư thục tại các nơi có điều kiện, góp phần đẩy nhanh số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo.
Tám là: Đổi mới cách xây dựng nền giáo dục, đào tạo, phục vụ nhu cầu xã hội; thực hiện đúng yêu cầu học để làm việc, giúp nước, giúp dân; xây dựng cơ sở đào tạo theo hướng đào tạo đến đâu sử dụng đến đó.
Chín là: Xây dựng hệ thống quốc gia để kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục và đào tạo; xử lý việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực trên phạm vi cả nước, bảo đảm phát triển hài hòa, cân đối.
Mười là: Bảo đảm và huy động nguồn vốn cho phát triển nhân lực trên phạm vi cả nước; đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường các nguồn vốn cho phát triển nhân lực.
Mười một là: Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người. Chất lượng con người, trước hết, phải tính đến chất lượng sinh con. Ngành y tế phải có những quy định cụ thể về chất lượng sinh con như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền và vợ chồng quan hệ để sinh con,... trước khi chính quyền cấp giấy đăng ký giá thú.Hiện nay, tại Việt Nam, đang có tình trạng đẻ vô tội vạ, đẻ không tính toán, cân nhắc, nhất là ở nông thôn, làm cho những đứa con sinh ra bị còi cọc, không phát triển được trí tuệ. Thậm chí có những người bị nhiễm chất độc da cam mà vẫn đẻ ra những đứa con dị tật. Có người tính rằng, tại Việt Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh. Vì vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng.

Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là phải nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào, trí tuệ minh mẫn.

Xây dựng chất lượng con người phải có sự gắn kết với chất lượng cuộc sống xã hội; có sự gắn kết chặt chẽ giữa xã hội - nhà trường - gia đình để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai.
Mười hai là: Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Mười ba là: Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xác định thật rõ xây dựng, thực hiện và phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của toàn xã hội và của mỗi công dân Việt Nam.
Mười bốn là: Phải có cả một hệ thống cơ chế thật thông thoáng để khai thác, phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo và trọng dụng nhân tài. Nếu chúng ta cứ bằng lòng với cơ chế hiện nay, thì không bao giờ có những nhân tài xuất hiện, vì mọi cái đều ràng buộc như vòng kim cô, người tài không thoát ra được. Vì vậy, phải có cơ chế tự chủ, tự hành động, vượt qua tất cả rào cản để tiến nhanh trên con đường nhân tài.
Mười năm là: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ hiện đại về Việt Nam. Chọn ra những người có thiên hướng bác học, gửi đi đào tạo ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí của nhà nước.
Mười sáu là: Sau mỗi một giai đoạn triển khai, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà phát huy mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt.
Mười bảy là: Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Mười tám là: Cần có định kỳ tăng tiền lương cho cán bộ, công nhân (ở cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân), công chức, viên chức. Tăng lương theo định kỳ cũng là một giải pháp tốt để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, vì giữa năng suất lao động và tiền lương có mối quan hệ tương tác với nhau. Năng suất lao động tăng thì tiền lương cũng phải tăng và ngược lại. Ông Kurôda Kazuteru, người Nhật Bản, chuyên gia nghiên cứu về năng suất lao động, làm việc tại Trung tâm Năng suất Nhật Bản, nói rằng: "Nếu năng suất lao động giảm mà tiền lương tăng thì thiệt thòi cho giới chủ, còn nếu tiền lương giảm mà năng suất lao động tăng thì thiệt thòi cho người lao động". Đúng vậy.
Mười chín là: Cần đầu tư tài chính cho những tổ chức, đơn vị, viện, nhà khoa học đã và đang nghiên cứu về nhân lực Việt Nam (kể cả trong công lập và ngoài công lập). Hiện nay, ngân sách nhà nước chi cho các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân còn khá lớn, trong khi đó lại ít chi cho các tổ chức, đơn vị, viện, nhà khoa học để làm vấn đề này (Theo Dự toán chi ngân sách trung ương năm 2016, tổng chi cho các cơ quan trung ương của 6 tổ chức chính trị - xã hội tới 1.503,740 tỉ đồng).Chi cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị, viện, nhà khoa học để nghiên cứu cho ra vấn đề nhân lực là sự chi cần thiết.
Hai mươi là: Cần có sự hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu nâng cao chất lượng nhân lực của Việt Nam nói riêng.

  1. Làm thế nào để tháo gỡ được rào cản trong việc phát triển nhân lực hiện nay?


Nhiều nhà khoa học cho rằng, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và trong nghiên cứu nhân lực, vẫn còn nhiều rào cản (mặc dù đã được khắc phục một bước) trong việc nghiên cứu, khai thác, sử dụng nhân lực và tạo nguồn nhân lực hiện nay, như việc vẫn còn phân biệt đối xử trong nghiên cứu khoa học giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị, viện nghiên cứu khoa học trong công lập và ngoài công lập, nhất là trong việc "ăn - chia" đề tài nghiên cứu khoa học. Xu thế hiện nay vẫn là ưu tiên làm đề tài khoa học cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị, viện trong công lập hơn là ngoài công lập. Hiện nay, vẫn còn tình trạng về mặt pháp lý thì bình đẳng trong nghiên cứu khoa học, nhưng thực chất bên trong, vẫn còn không ít người làm công tác lãnh đạo, quản lý thiên về các tổ chức, cơ quan, đơn vị, viện trong công lập hơn là ngoài công lập. Niềm tin vào các tổ chức ngoài công lập chưa được củng cố.
Cơ chế tài chính trong nghiên cứu khoa học vẫn còn nhiều chuyện phải bàn, vẫn chưa thích hợp với tình hình nghiên cứu khoa học hiện nay. Nhiều vị có chức có quyền đề nghị nên căn cứ vào chất lượng sản phẩm, công trình mà "khoán trọn gói" cho người chịu trách nhiệm chính thực thi đề tài, đề án, dự án nghiên cứu khoa học, nhưng trên thực tế vẫn còn rườm rà về thủ tục thanh, quyết toán. Điều này phản ánh là chưa có sự thống nhất từ trên xuống dưới, "trên bảo dưới không nghe". Vì vậy, cần có sự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về vấn đề này.
Cần phá bỏ sự độc quyền nghiên cứu khoa học đối với bất kỳ tổ chức, cơ quan, đơn vị, viện nào, phải xác định việc nghiên cứu khoa học là sự nghiệp chung của mọi công dân, mọi nhà khoa học; tạo sân chơi phẳng, bình đẳng trong nghiên cứu khoa học.

Nên sửa lại một số chính sách cho phù hợp với việc phát triển nhân lực và nguồn nhân lực hiện nay.

Đó là chính sách mở, thông thoáng cho tất cả mọi nhà khoa học được quyền nghiên cứu, quyền đấu thầu các công trình khoa học.
Nên chọn những nhà khoa học có tầm, có tâm vào các hội đồng chấm các đề án, đề tài, luận án, luận văn, bảo đảm tính công bằng, dân chủ, tránh tình trạng cảm tình cá nhân, cơ hội như hiện nay của một số thành viên trong một số hội đồng khoa học xét duyệt, chấm công trình, đề tài, đề án, dự án, luận án, luận văn.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là cần bỏ ngay các rào cản để phát triển.

  1. Kiến nghị bổ sung về chính sách phát triển nhân lực:


Chính phủ đã xây dựng Chương trình hành động thực hiện Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ (giai đoạn) 2011-2020, ban hành kèm theo Quyết định 579. Trong Chương trình này, Chính phủ xây dựng, bổ sung và phát triển hệ thống khung pháp lý chung và chính sách phát triển nhân lực Việt Nam. Cụ thể là: (1) Xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục (sửa đổi). Tập trung vào các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và tăng cường quyền tự chủ cho các đơn vị đào tạo. (2) Xây dựng Luật Giáo dục đại học; xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học (sau khi Luật đã được Quốc hội thông qua. (3) Xây dựng Luật Giáo viên; xây dựng nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giáo viên (sau khi Luật được Quốc hội thông qua). (4) Xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Dạy nghề, về phát triển hệ thống dạy nghề (về giáo viên dạy nghề, về phát triển hệ thống dạy nghề trong doanh nghiệp, về hệ thống kiểm định, đánh giá chất lượng dạy nghề...). (5) Xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Lao động (những nội dung quy định về đào tạo) để khuyến khích và huy động các doanh nghiệp tham gia và đóng góp nhiều hơn cho đào tạo nghề. (6)
Xây dựng Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội về việc thành lập và sử dụng Quỹ hỗ trợ đào tạo lao động dôi dư và người thất nghiệp. (7) Xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Công vụ. (8) Xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Công chức. (9) Hoàn thiện trình Quốc hội thông qua Luật Viên chức; xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Viên chức (sau khi Luật Viên chức được Quốc hội thông qua). (10) Xây dựng Nghị định về hoạt động phi lợi nhuận và hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (chung đối với các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao). (11) Xây dựng Nghị định về chính sách, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp phát triển nguồn nhân lực từ nguồn tài chính của doanh nghiệp. (12) Xây dựng báo cáo rà soát hệ thống văn bản pháp lý về phát triển, quản lý và sử dụng nhân lực (nhằm loại bỏ sự chồng chéo, bất hợp lý của hệ thống và kiến nghị giải pháp khắc phục. (13) Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài khoa học - công nghệ. (14). Xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về hệ thống chuẩn tiêu chí và trình tự thủ tục hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các chương trình, dự án trọng điểm phát triển nhân lực.
Ngoài những luật, nghị định, quyết định trên đây mà Chính phủ đã đề ra trong Chiến lược Phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ (giai đoạn) 2011-2020, tôi xin đề nghị bổ sung xây dựng thêm 5 luật về nhân lực: (1) Luật Nhân tài nhân lực. (2) Luật Nghiên cứu khoa học. (3) Luật Tiền lương. (4) Luật Việc làm (trong đó có việc làm cho người tàn tật) (5) Luật tuyển dụng lao động; kèm theo là Nghị định hướng dẫn thi hành các luật trên.
Sự nghiệp xây dựng nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã và đang diễn ra trên khắp mọi miền đất nước. Đường lối đúng, chính sách phù hợp, tổ chức thực hiện tốt là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển nhân tài nhân lực của Việt Nam hiện nay.