Mới cập nhật

Kỷ niệm lần thứ 135 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2025)

Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam – Nhà sáng tạo lớn

GS,TS Đàm Đức Vượng

 

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890, tại quê ngoại là làng Hoàng Trù (làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; quê nội là làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình trí thức, nguồn gốc nông dân. Người sinh ra trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Đồng bào của Người đã phải chịu bao cảnh đau thương tang tóc bởi gót giày đinh của chế độ thực dân Pháp giày xéo. Chính vì lẽ đó mà có biết bao cuộc nổi dậy của các nhà yêu nước chống xâm lược Việt Nam, nhưng các cuộc nổi dậy ấy đều lần lượt bị thất bại.




Năm 1901, Người lấy tên là Nguyễn Tất Thành, chứng kiến những cuộc thất bại sau khởi nghĩa của các bậc sĩ phu tiền bối yêu nước Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, một tình cảm đặc sắc nhất đã bùng lên trong trái tim của Người. Và từ chủ nghĩa yêu nước dần dần đã hình thành tư tưởng cứu nước. Người muốn đi tìm con đường cứu nước kiểu mới và đã quyết đi con đường đó.

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời bến Cảng Nhà Rồng, Sài Gòn, xuống tàu biển Amiran Latútsơ Trêvinlơ (Amiral Latouche Tresville), mở đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước ở châu Âu, châu Á, châu Phi và nước Mỹ.

Năm 1919, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc cùng một số người Việt Nam yêu nước lúc ấy đang ở Pháp, ký tên vào bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi những người tham dự Hội nghị Vécxây (còn gọi là Hội nghị Hòa Bình Pari) đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân An Nam (Việt Nam).

Tại Pari, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” (gọi tắt là Luận cương) của V.I.Lênin trình bày tại Đại hội II (họp năm 1920) của Quốc tế Cộng sản. Ngoài văn kiện quan trọng này, Người còn nghiên cứu một số tác phẩm của C.Mác, trong đó có bộ “Tư bản”. Sau khi đọc Luận cương của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình. Luận cương đã gợi mở cho Người một đường lối cứu nước mới. Đây là bước rẽ ngoặt về tư tưởng của Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đây, Người bước trên con đường cách mạng đầy chông gai và thử thách.

Điểm xuất phát của Nguyễn Ái Quốc trên con đường cách mạng bao giờ cũng bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước, và từ chủ nghĩa yêu nước, Người đã tìm ra con đường cứu nước.

Tại Pháp, Người sáng lập báo “Người cùng khổ” (Le Paria) và báo “Việt Nam hồn”.

Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp thuộc địa” và tham gia thành lập “Ban Nghiên cứu thuộc địa” của Đảng Cộng sản Pháp. Quan điểm của Người là Hội Liên hiệp thuộc địa và Ban Nghiên cứu thuộc địa phải có trách nhiệm giúp đỡ các nước thuộc địa tìm ra con đường giải phóng phù hợp của mỗi nước và đi đến thắng lợi. Người rất say mê bàn về vấn đề thuộc địa và giải phóng thuộc địa, trong đó có vấn đề giải phóng dân tộc Việt Nam. Với Nguyễn Ái Quốc, cuộc đấu tranh để giải phóng thuộc địa không bao giờ dừng lại.

Ngày 25-12-1921, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất thành lập Đảng Cộng sản Pháp, họp tại thành phố Cảng Mácxây, Pháp, với tư cách là đại biểu chính thức do Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng cử. Tại phiên họp thứ 9 của Đại hội diễn ra vào ngày 29-11-1921, thay mặt những người biên soạn, Nguyễn Ái Quốc đọc dự thảo “Nghị quyết về chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa”, chỉ ra sự cần thiết trong một thời gian ngắn nhất phải tạo ra được phong trào đối kháng mang tinh thần cộng sản, chống chủ nghĩa tư bản và hai hình thức đặc biệt của nó là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa pháo thuyền ở các nước thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên ở Đông Dương.

Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô với mục đích là để gặp gỡ những chiến sĩ cộng sản quốc tế đang làm việc trong cơ quan của Quốc tế Cộng sản, đồng thời, muốn tìm hiểu về Cách mạng tháng Mười Nga, muốn gặp V.I.Lênin1, người sáng lập Quốc tế Cộng sản và muốn học thêm lý luận. Tại Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc làm việc ở Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản.

Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản diễn ra tại Mátxcơva, Liên Xô diễn ra từ ngày 17-6-1924 đến ngày 8-7-1924. Tại Đại hội này, Người phát biểu về vấn đề quốc tế cộng sản, vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, vấn đề ruộng đất cho nông dân.

Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu, Trung Quốc để chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của của một đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam. Tại Quảng Châu, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho thanh niên, công nhân, nông dân sang học. Cũng tại Quảng Châu, Người đã sáng lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” (Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội , gọi tắt là Thanh niên) mà hạt nhân bên trong của tổ chức này là Cộng sản Đoàn.

Hoạt động tại Quảng Châu đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc lại trở lại Liên Xô hoạt động với tư cách là cán bộ của Quốc tế Cộng sản.

Sau cuộc hành trình trải qua nhiều nước, vào một ngày của tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc tới nước Xiêm (Thái Lan) để xây dựng các cơ sở Việt kiều yêu nước tại Xiêm. Tại Xiêm, có thời gian, Người đã sang Lào, xây dựng cơ sở Việt kiều yêu nước ở Lào.

Từ Xiêm, Người đến Hồng Kông chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930. Người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng nêu rõ cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để đi tới xã hội cộng sản. Sau này, Đảng đã phát triển thành cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng  dân tộc dân chủ, dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, dân tộc gắn liền với giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc gắn với thời đại.

Sau Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc dự Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, thảo luận và thông qua Luận cương chính trị do Trần Phú khởi thảo, nêu rõ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hương Cảng (Hồng Kông). Từ ngày 31-7-1931 đến ngày 12-9-1931, Tòa án Hương Cảng mở 9 phiên xét xử Tống Văn Sơ (Nguyễn Ái Quốc), được luật sư người Anh F.H. Lôdơbi (Lôdơbai – Francis Henry Loseby) ra sức bào chữa cho Người và Người cũng đã kháng án lên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh ở Luân Đôn. Vì vậy, Người đã được ra tù.

Ra tù, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô, vào học Trường Đại hội mang tên Lênin. Ngoài ra, Người còn vào học nghiên cứu sinh của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Viện này nằm trong Trường Đại học Phương Đông.

Đại hội I của Đảng, tháng 3-1935, bầu (vắng mặt) Nguyễn Ái Quốc là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Từ ngày 25-7-1935 đến ngày 21-8-1935, tại Mátxcơva, Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu Ban phương Đông, Quốc tế Cộng sản và Người cũng nằm trong danh sách Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản2.

Ngày 8-2-1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Việt Nam. Với tư cách đại diện Quốc tế Cộng sản Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, tại Cao Bằng. Hội nghị xác định cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc và quyết định khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh.

Ngày 13-8-1945, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của những người Việt Nam ở đó. Nhưng không may, vừa qua biên giới Việt – Trung, Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam hơn một năm, bị giải tới giải lui khắp 13 huyện và khoảng 18 nhà lao tỉnh Quảng Tây. Trong những ngày lao tù, Người đã viết tập thơ nổi tiếng: “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù).

Ngày 10-9-1943, Hồ Chí Minh được trả lại tự do.

Ngày 20-9-1944, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam. Về nước, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và cử Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 15-8-1945, tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Hôm khai mạc, vì ốm, Hồ Chí Minh không đến dự Hội nghị, nhưng Tồng Bí thư Trường Chinh và những người có trách nhiệm đều đến báo cáo với Người. Hội nghị quyết định Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay Nhật xâm lược Đông Dương và những phần tử làm tay sai cho Nhật, trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam.

Đại hội quốc dân Tân Trào họp từ ngày 16 đến ngày 17-8-1945, tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội nhất trí cao chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh và tán thành 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đại hội quy định Quốc kỳ là cờ đỏ, giữa có sao vàng năm cánh. Quốc thiều là bài Tiến quân ca và cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.



Cách mạng tháng Tám năm 1945, khởi nghĩa bùng nổ trong cả nước. Hà Nội khởi nghĩa vào ngày 19-8-1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn và Tổng Bí thư Trường Chinh là kiến trúc sư của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tuyên bố Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập và thực tế đã trở thành một nước Việt Nam tự do, độc lập.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo thành công hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đất nước thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lý luận gắn với hoạt động thực tiễn. Trong lý luận, Người đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị, như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), “Đường Kách mệnh (1927), “Sửa đổi lối làm việc” (1947)… Bộ “Hồ Chí Minh Toàn tập” (15 tập) là di sản chính trị, lý luận, khoa học quý báu của Đảng và dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mất ngày 2-9-1969, tại Hà Nội, thọ 79 tuổi.

2. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những có những sáng tạo lớn, mang tính cách mạng và khoa học:

Một là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc xác định cách mạng là đổi mới

“Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”3. Với định nghĩa này thì không nhất thiết “cách mạng” đồng nghĩa với “cộng sản” mà là đồng hành với cộng sản. Một công dân sống trong một chính thể nhà nước nếu làm được việc đổi cái cũ, sang cái mới, tiến bộ đều là nhà cách mạng. Một người cộng sản không nhất thiết cứ phải là người cách mạng nếu người đó không biết đổi cái cũ, lạc hậu ra cái mới, tiến bộ.

Sự nhìn nhận cách mạng là đổi mới, Hồ Chí Minh đã làm thay đổi quan điểm nhận thức về cách mạng.

Hai là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện sự lựa chọn con đường cứu nước kiểu mới

 Hồ Chí Minh cứu nước bằng con đường giải phóng dân tộc nhằm thay đổi hẳn chế độ thực dân, phong kiến, thiết lập nền cộng hòa theo xu hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là chỗ khác nhau rất cơ bản về ý thức hệ giữa phương pháp cứu nước của Hồ Chí Minh với phương pháp cứu nước của Minh Trị, M.Ganđi, Tôn Đật Tiên (Tôn Trung Sơn), Xucácnô và phương pháp cứu nước của các vị sĩ phu đương thời. Sau khi cân nhắc, cuối cùng, Nguyễn Tất Thành đã lựa chọn hướng đi sang các nước phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, dân chủ, khoa học và kỹ thuật hiện đại. Sau này, Người kể lại: “Vào trạc 13 tuổi, lần đầu tiên, tôi đã được nghe những từ Pháp tự do, bình đẳng, bác ái. Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đàng sau những từ ấy”4. Sự lựa chọn này là khách quan, đúng đắn, chứng tỏ Hồ Chí Minh có cái nhìn hoàn toàn độc lập về thời thế.

Ba là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc nắm bắt nhanh nhạy chủ nghĩa Lênin, Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -– Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn theo một tư tưởng nhất quán

Giác ngộ cách mạng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là được đọc “Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” và từ chủ nghĩa Lênin, Người đã “nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi cách nô lệ”5.

Nguyễn Ái Quốc có linh khiếu chính trị đặc biệt. Người nắm bắt nhanh nhạy Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, vì Người xét thấy Luận cương đó phù hợp với đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam, cũng là phù hợp với ý tưởng của Người, nên Người đã tán thành Luận cương đó và quyết định đi theo phương hướng này. Sau này, Nguyễn Ái Quốc không dừng lại ở đường lối của V.I.Lênin, ở chủ nghĩa Mác – Lênin, mà Người đã sáng tạo ra nhiều luận điểm quan trọng về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở phương Đông và Việt Nam mà V.I.Lênin chưa nói đến.

Bốn là: Sáng tạo tư tưởng lý luận lớn của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc Người rất kiên quyết và sớm đưa chủ nghĩa xã hội vào các nước thuộc địa và phụ thuộc

Người Việt Nam đầu tiên nói đến “chủ nghĩa xã hội” là Nguyễn Ái Quốc6.

Việc chủ trương đưa chủ nghĩa xã hội vào các nước thuộc địa và phụ thuộc là bước rẽ ngoặt về tư tưởng, bước đột phá tư duy của Nguyễn Ái Quốc, chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc muốn thay đổi hình thái ý thức xã hội cho các nước thuộc địa và phụ thuộc. Với Người, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội như là một nhân tố phục hồi và nâng cao phẩm giá, lương tâm, danh dự cuộc sống của các dân tộc bị áp bức.

Năm là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc gắn kết vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giai cấp với dân tộc, dân tộc với dân chủ, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người

Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giai cấp với dân tộc, dân tộc với dân chủ, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế luôn hòa quyện vào nhau, không tách rời nhau. Hồ Chí Minh đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, nhưng không quay về với chế độ phong kiến Việt Nam, mà đi theo xu hướng của một nền dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, Người cũng không dừng lại ở một nền cộng hòa, dân chủ, mà tiến thêm một bước nữa mà đi con đường của chủ nghĩa xã hội. Người lấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở để đấu tranh giành độc lập cho dân tộc Việt Nam.

Sáu là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc tạo dựng nước Việt Nam mới, dân chủ, cộng hòa

Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nói đến một nước Việt Nam mới trong tương lai. Trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”, ngày 18-6-1919, gửi Hội nghị Vécxây, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đòi những nước lớn phải trả lại quyền dân tộc, dân chủ và tự do cho nhân dân Việt Nam. Đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào đầu năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam. Ngày 2-9-1945, trong “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”7. Khi nước nhà giành được độc lập, Người thiết lập ngay một Chính phủ mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với bộ máy hành chính gọn, nhẹ để giải quyết các vấn đề xã hội và quốc kế dân sinh. Với Hồ Chí Minh, Nhà nước bao giờ cũng phải là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Bảy là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện ở việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân8 trong Mặt trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh cho toàn dân tộc,  sức mạnh đoàn kết quốc tế, vì một nền hòa bình và dân chủ

“Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”9 là tư tưởng mang tính tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh. Với dân tộc Việt Nam, vấn đề đoàn kết toàn dân, đoàn kết các lực lượng nhân dân, tạo thành một khối vững chắc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là rất cần thiết. Hồ Chí Minh nói: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”10.

Tám là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện ở sự gắn kết giữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng mang tính song hành của Hồ Chí Minh. Hai vấn đề này gắn kết thành một khối vững chắc, không thể tách rời nhau. Xây dựng để tăng thêm sức bảo vệ và bảo vệ để củng cố xây dựng.

“Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh muôn năm”11 là tổng hợp cao nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chín là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện vấn đề nhìn nhận thời đại

Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề thời đại. Người ra đi tìm đường cứu nước để xem vấn đề thời đại và từ thời đại để soi vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề thời đại là rõ ràng: Thời đại của chúng ta là “thời đại mới”12, độc lập, tự do cho các dân tộc, thời đại hòa bình, dân chủ, tiến bộ, phát triển trên toàn thế giới.

Mười là: Sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản

Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, thì sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam được kết hợp bởi ba yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước. V.I.Lênin cho rằng, sự ra đời của Đảng Cộng sản được kết hợp bởi hai yếu tố: chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh sáng tạo thêm yếu tố thứ ba là phong trào yêu nước. Yếu tố thứ ba này hoàn toàn phù hợp với phương Đông và Việt Nam.

Trong xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến quan điểm vì nhân dân, phục vụ nhân dân của Đảng. Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức chiến đấu và đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là hiện thân của trí tuệ, đạo đức, văn minh, dân chủ, công bằng; cán bộ, đảng viên của Đảng phải là những người có tư cách, nhân cách, tác phong công tác và ứng xử văn hóa.

Trên đây là mười vấn đề mang tính sáng tạo tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh. Những sáng tạo này đều mang tính cách mạng và khoa học, tính Đảng Cộng sản, tính dân tộc và tính thời đại. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để tìm thêm những sáng tạo của Người, bổ sung vào công trình nghiên cứu về Người cho đầy đủ.

  ------

 

1. Nguyễn Ái Quốc không gặp được V.I.Lênin, vì lúc này V.I.Lênin đang ốm nặng.

2. Đây là Đại hội cuối cùng của Quốc tế Cộng sản.

3. Hồ Chí Minh Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr. 284.

4. Theo O.Manddensstam: Thăm một chiến sĩ cộng sản - Nguyễn Ái Quốc, báo “Đốm lửa” (xuất bản ở Liên Xô), số 39, ngày 23-12-1923.

5. Hồ Chí Minh Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 563.

6. Xem Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr. 23.

7. Báo “Cứu quốc”, số 36, ngày 5-9-1945 -  Hồ Chí Minh Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.3.

8. Sau này phát triển lên thành lý luận: “khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

9. Xem Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 6, tr. 183.

10. Xem Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr. 20.

11. Xem Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr. 202.

12. Xem Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 7, tr. 224.