Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (1945 – 2025)
Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám
GS,TS
Đàm Đức Vượng
Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng do nhân dân Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Mầm mống của cuộc Cách mạng này có thể nói được bắt đầu từ Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930, vì trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” ghi rõ chủ trương làm cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa, tức là chủ trương đánh đổ thực dân Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
Trực tiếp quyết định tiến hành Cách
mạng tháng Tám là Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng (Hội nghị Trung ương 8)
diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, tại Cao Bằng, dưới sự chủ tọa của Nguyễn
Ái Quốc với cương vị đại diện Quốc tế Cộng sản. Hội nghị thảo luận dự thảo nghị
quyết do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo.
Hội nghị đã phân tích sâu sắc về tình
hình quốc tế và tình hình Đông Dương trước sự xâm lược của thực dân Pháp và
phát xít Nhật.
Sau khi xác định quan điểm chung về vấn
đề dân tộc, Hội nghị bàn về quyền tự quyết của ba dân tộc ở Đông Dương là Việt
Nam, Lào, Campuchia, thực hiện khởi nghĩa vũ trang, đánh đuổi phát xít Nhật và
thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Nhật, Pháp ra khỏi Đông
Dương, các dân tộc ở Đông Dương sẽ tự mình lựa chọn con đường phát triển. Đối
với dân tộc Việt Nam, sau khi đánh đuổi Nhật, Pháp, sẽ thành lập một nước Việt
Nam mới theo tinh thần “tân dân chủ”, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị chủ trương mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành
lập “Việt Nam Độc lập Đồng Minh” (gọi tắt là “Mặt trận Việt Minh”, gọi tắt nữa
là “Việt Minh”).
Hội nghị nhất trí bầu Ban Chấp hành
Trung ương mới của Đảng Cộng sản Đông Dương, vì hầu hết các vị Trung ương trước
đã bị địch bắt và giết. Ban Thường vụ Trung ương mới cũng được bầu ra gồm
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, do Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Sau Hội nghị Trung ương 8, tháng
5-1941, mọi công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành gấp. Ngày 23-3-1945,
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”1, do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp
soạn thảo. Tư tưởng chỉ đạo có tính chất bao trùm của Chỉ thị thực chất là
chương trình hành động cách mạng của nhân dân ta. Cần hành động ngay, hành động
kiên quyết, nhanh chóng, sáng tạo, chủ động, táo bạo, không chịu bó tay khi
tình thế biến chuyển thuận lợi, đẩy mạnh cao trào kháng Nhật, cứu nước tiến đến
tổng khởi nghĩa. “Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay chúng ta!”2.
Cùng với Chỉ thị là Hiệu triệu của Việt
Minh kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên chống Nhật (sau khi Pháp đã đầu hàng)
bằng các hình thức biểu tình, thị oai, bãi công, bãi thị, bãi khóa, phá đường
giao thông, kho tàng, đánh đồn, chặn các đội quân tuần tiễu của Nhật, chặn bàn
tay của của chúng lại, không để cho chúng tác oai, tác quái.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, sự chỉ đạo kịp thời của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Tổng Bí thư Trường
Chinh, khắp các địa phương đã nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân, dẫn
đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam.
“Tuyên ngôn độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí
Minh khởi thảo và đọc tại Lễ độc lập ở vườn hoa Ba Đình, Hà Nội, chiều ngày
2-9-1945, đã chính thức tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á,
ra đời.
Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước phải
trải qua 9 năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm chống Mỹ xâm lược, cuối cùng đã
giành được độc lập, tự do, giang sơn thu về một mối, từ cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước như ngày hôm
nay.
Qua những sự kiện nổi bật trong Cách
mạng tháng Tám đã nêu trên đây, có thể rút ra một số vấn đề:
Một
là: Cách mạng tháng Tám là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ (đến Đại hội II của Đảng,
năm 1951, bổ sung thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) tiến lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hai
là: Cách mạng tháng Tám thành công là
thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lênin ở một nước thuộc địa và nửa phong
kiến, góp phần mở ra một thời kỳ sụp
đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc thế giới.
Ba
là: Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã
đánh thẳng vào dinh lũy của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, làm đứt tung một khâu
yếu nhất trong chuỗi xích của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, mở đường cho cách
mạng giải phóng dân tộc phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước
nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Bốn
là: Cách mạng tháng Tám đã đập tan
chính quyền thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Năm
là: Thành công của Cách mạng tháng
Tám đánh dấu mốc son chói lọi của nghệ thuật lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền
của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Sáu
là: Cách mạng tháng Tám thành công là
thắng lợi của Mặt trận dân tộc thống nhất, thể hiện là Mặt trận Việt Minh.
Bảy
là: Cách mạng tháng Tám thành công
thể hiện sự nắm bắt nhanh nhạy, chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước.
Tám
là: Sự chủ động, linh hoạt, linh
động, sáng tạo, không cứng nhắc của các địa phương và các tầng lớp nhân dân đã
đẩy cao trào cách mạng tiến lên trong hoàn cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”.
Chín
là: Cách mạng tháng Tám thắng lợi
trong hoàn cảnh tự lực, tự cường của nhân dân Đông Dương. Lúc này, Liên Xô chưa
công nhận Việt Nam, còn Trung Quốc mãi tới năm 1949, cách mạng mới thành công.
Mười
là: Cách mạng tháng Tám thành công
thể hiện đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, một đảng
mới 15 tuổi (1930-1945) đã lãnh đạo cách mạng thành công, giành chính quyền
trong cả nước.
Nét độc đáo trong sự lãnh đạo của Đảng
thể hiện ở chỗ Đảng đã đề ra đường lối đúng, sáng tạo và tổ chức thực hiện
đường lối có kết quả. Trong một tình thế nhất định, Đảng biết tìm ra những việc
mấu chốt cần làm ngay, đem hết tâm sức làm cho bằng được nhằm đẩy mạnh cao trào
tiến lên. Việc chỉ đạo đánh phá các kho thóc và các đồn điền của địch chia cho
dân cày nghèo đã đẩy phong trào cứu quốc phát triển rầm rộ và nhanh chóng.
Lựa theo hoàn cảnh, Đảng khéo léo vận dụng những hình thức tổ chức quá độ, như
ủy ban nhân dân cách mạng, ủy ban giải phóng địa phương và ủy ban giải phóng
dân tộc Việt Nam, đã làm tê liệt bộ máy hành chính của địch. Sự chuyển tiếp các
ủy ban nhân dân cách mạng và ủy ban giải phóng lên chính thể cộng hòa dân chủ
là bước phát triển mới về chất, chứng tỏ nghệ thuật lãnh đạo khôn khéo của
Đảng. Đảng đã có sự chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là sự chuẩn bị về đường lối,
nghệ thuật, xác định kẻ thù cần phải đánh đổ, sự chuẩn bị về tổ chức đều rất
chính xác.
Ban lãnh đạo Đảng trong Cách mạng tháng
Tám rất năng động, tự chủ, sáng tạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn và Tổng Bí thư Trường Chinh là kiến trúc sư của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam.
------
1.
Xem Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7,
tr. 364.
2.
Đảng Cộng sản Việt