Về Tổng Bí thư Trần Phú
GS,TS Đàm Đức Vượng
1. Lợi dụng dịp kỷ niệm ngày 30-4-1975, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, có nhiều người khác chính kiến ra sức viết và sưu
tầm, tung lên trang mạng mang tính quốc tế rất nhiều bài viết xoay quanh cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam. Họ chĩa mũi nhọn
vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, các Tổng Bí thư của Đảng và các nhà cách mạng tiền
bối mà chê trách, cho rằng, đây là mầm mống của những tai họa gây ra cho nhân
dân Việt Nam qua các thời kỳ chống giặc ngoại xâm, trong đó có cuộc chiến tranh
mà họ gọi là “chiến tranh Việt – Mỹ”.
Gần đây, trên một trang mạng quốc tế
tung lên một bài viết rất dài, chia làm 6 phần của hai người khác chính kiến
(một người danh nghĩa phỏng vấn, một người danh nghĩa trả lời phỏng vấn), nhan
đề: “Nói lời phải chăng”. Bài viết xoay quanh cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam chống Mỹ, cứu nước. Bài này viết cách đây đã 10 năm, nay đăng lại.
Trong bài viết này, họ nhận định cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân Việt Nam bắt nguồn từ những sai lầm trong đường lối của Quốc tế Cộng sản ở
Mátxcơva, Liên Xô, do Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương Trần
Phú, sinh viên tốt nghiệp của Trường Đại học Phương Đông, mang về và truyền bá
vào Việt Nam, rồi trải qua những năm, tháng hoạt động, Đảng Cộng sản Việt Nam
dần dần dẫn đến cho nhân dân Việt Nam thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, nên mới gây ra cảnh “nồi da xáo thịt” này.
Từ nhận định không đúng trên đây, hai
tác giả của bài viết đã đưa ra những nhận định sai trái về quá trình lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như bản thân cuộc đời hoạt động cách mạng của
Trần Phú, như viết: “Trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khi mới về nước (tháng 4-1930), mặc dù ông chưa bao giờ được kết nạp
vào Đảng này…”. Bài viết khẳng định “Trần Phú được Đảng Cộng sản Liên Xô kết
nạp năm 1928”…
Bình luận về Luận cương chính trị năm
1930, do Trần Phú khởi thảo, được Hội nghị Trung ương Đảng chính thức lần thứ
nhất, họp vào tháng 10-1930, tại Hương Cảng (Hồng Kông)1, thảo luận
và thông qua, hai tác giả của bài viết cũng có nhiều chỗ viết không đúng mà tôi
thấy cần phải phân tích lại để cho đúng với lịch sử.
2. Trần Phú (Có tài liệu ghi là Trần Ngọc Phú)2,
trong quá trình hoạt động cách mạng còn mang các bí danh: Lý Quý, Lý Việt Hoa
(ở Trung Quốc), Likive, Likvây, Le Quy (ở Liên Xô), Năm (ở Sài Gòn), Hai Cao (ở
Hải Phòng),…, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương từ tháng
10-1930 đến tháng 9-1931, sinh ngày 1-5-1904. Quê hương của Trần Phú ở xã Tùng
Ảnh (trước là xã Việt Yên Hạ, sau đó, đổi là xã Đức Sơn, rồi xã Tùng Ảnh),
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Trần Phú sinh ra trong một gia đình nhà
nho nghèo, nhưng sống rất thanh bạch; là con trai thứ tư của gia đình Trần Văn
Phổ và Hoàng Thị Cát. Thân phụ Trần Phú là Trần Văn Phổ, có thời gian làm tri
huyện Đức Phổ, tỉnh Quãng Ngãi, sống rất liêm khiết, thanh bạch, được nhân dân
địa phương quý mến. Ông Phổ cũng được sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo.
Năm 1848, ông Phổ thi đỗ giải nguyên3. Sau khi đỗ giải nguyên, ông
Phổ được bổ nhiệm làm chức giáo thụ4 tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng
Ngãi. Đầu năm 1901, ông được điều chuyển vào dạy học tại Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Ông đem theo cả giai đình tới địa phương này. Trần Phú sinh ra tại đây. Đến năm
1907, Triều đình Huế bổ nhiệm ông Phổ làm tri huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
Trong thời gian làm giáo thụ, dạy học cũng như trong thời gian làm tri huyện, ông
Phổ tỏ rõ là một người thực sự thương dân và xót xa trước cảnh đất nước bị gót
giày định của thực dân giày xéo. Do nhất quyết không chịu thi hành lệnh của nhà
cầm quyền Đông Pháp và Triều đình Huế lúc ấy buộc ông phải cung cấp cho họ một
số người, ngựa để đi đàn áp nhân dân phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ; uất ức
quá, ông đã thắt cổ tự tử. Vì vậy, có thể nói, tuy là quan lại, nhưng ông Phổ
là quan lại yêu nước và thương dân.
Đức Thọ, Hà Tĩnh, cũng có truyền thống
hiếu học và yêu nước. Trải qua nhiều đời, nhiều thế hệ, ở miền quê này, có
nhiều người gan góc chống giặc ngoại xâm. Đời nào cũng có hàng nghìn, hàng vạn
người xông nơi trận tiền để đánh giặc, cứu nước.
Trần Phú là một trong những người chịu
ảnh hưởng tốt đẹp của truyền thống quê hương đó.
Thưở nhỏ, Trần Phú đi học. Sau khi thân
phụ, thân mẫu qua đời, Trần Phú về Quảng Trị ở với anh, chị ruột đã lập gia
đình riêng. Tới năm 1914, Trần Phú được một người em mẹ giúp đỡ, cho ra Huế ăn
học tại Trường Tiểu học Pháp – Việt Đông Ba. Do chăm chỉ học tập, Trần Phú đỗ
bằng sơ học yếu lược và được vào học tiếp tại Trường Quốc học Huế. Sau 4 năm
“dùi mài kinh sử, nấu sử sôi kinh”, mùa hè năm 1922, Trần Phú thi đỗ đầu kỳ thi
Thành chung5 do Trường Quốc học Huế tổ chức.
Rời Trường Quốc học Huế, Trần Phú đi
làm thầy giáo, dạy tại Trường Tiểu học Cao Xuân Dục, thành phố Vinh. Tại đây,
ông đã có những điều kiện tiếp xúc với công nhân, nông dân, học sinh thành phố
Vinh và bước đầu đã có những hoạt động yêu nước.
Năm 1925, Trần Phú tham gia sáng lập “Hội
Phục Việt”, một tổ chức yêu nước và cách mạng với chủ trương “đánh đổ đế quốc,
xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái”6. Rồi Hội Phục Việt lần lượt đổi
tên thành “Hội Hưng Nam”, “Việt Nam Cách mạng Đảng”, “Tân Việt Cách mạng Đảng”,
“Đảng Tân Việt”, gọi tắt là “Tân Việt”. Tháng 1-1930, những người phái tả trong
Đảng Tân Việt đứng ra thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Tân Việt hoạt động trong điều kiện Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, gọi
tắt là Thanh niên), một tổ chức yêu nước và cách mạng do Nguyễn Ái Quốc sáng
lập tại Quảng Châu, Trung Quốc vào tháng 6-1925, đã ra đời và hoạt động rất
hăng hái, làm ảnh hưởng tốt đến tư tưởng của các đảng viên Đảng Tân Việt.
Công lao lớn nhất của Trần Phú đối với
Tân Việt là gây dựng các cơ sở của Tân Việt tại nhiều địa phương ở Trung Kỳ. Các
tổ chức mà ông gây dựng lên đều thấm nhuần tinh thần yêu nước và cứu nước. Khi
Tân Việt tổ chức lễ truy điệu cụ Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) và vận động
nhân dân đấu tranh đòi trả lại tự do cho cụ Phan Bội Châu, Trần Phú là một
trong những người tích cực cho cuộc vận động này.
Những tin tức của cách mạng thế giới và
những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài ngày càng giội vào trong nước.
Tân Việt đón nhận luồng ánh sáng đó với khát vọng cứu nước. Trần Phú đọc báo
“Le Paria” (Người cùng khổ) trong một nhóm hoạt động yêu nước ở thành phố Vinh.
Tiếng bom của Phạm Hồng Thái mưu giết Toàn quyền Đông Dương Méclanh, trùm thực
dân Pháp ở Đông Dương, từ Sa Diện (Sa Điện) vọng về Tổ quốc. “Tiếng lòng” của
Phan Bội Châu kêu gọi đồng bào đứng dậy giết giặc, thu phục giang sơn vẫn văng
vẳng nơi đầu làng, cuối xóm.
Tháng 6-1929, tại Quảng Châu, Nguyễn Ái
Quốc sáng lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” (còn gọi là “Việt Nam Thanh
niên Cách mạng đồng chí Hội”, gọi tắt là “Thanh niên”). Đây là tổ chức đầu tiên
ở Việt Nam có xu hướng xã hội chủ nghĩa. Tân Việt muốn tìm hiểu đường lối của
Thanh niên, nên đã quyết định cử Trần Phú cùng một số người khác sang Quảng
Châu để gặp Nguyễn Ái Quốc và Tổng bộ Thanh niên. Nhân chuyến đi này, Trần Phú
còn có nhiệm vụ tham dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc và Tổng bộ
Thanh niên tổ chức tại Quảng Châu.
Tại Quảng Châu, Trần Phú vinh dự được
gặp Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên, Trần Phú được gặp Nguyễn Ái Quốc. Trần
Phú đã báo cáo với Nguyễn Ái Quốc về tình hình trong nước và bàu tỏ lòng mong muốn
được hợp nhất giữa Tân Việt (lúc này lấy tên là Hội Hưng Nam) và Thanh niên,
nhằm tạo ra một lực lượng cách mạng thống nhất và hùng hậu để chống lại quân
xâm lược Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc tán thành những nhận định của Trần Phú về
phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Để giữ bí mật, Trần Phú đề nghị Nguyễn
Ái Quốc đổi tên là Lý Quý7.
Trong quá trình học tập, Trần Phú được
kết nạp vào Thanh niên và Cộng sản Đoàn, một tổ chức nòng cốt của Thanh niên,
hoạt động như một tổ chức cộng sản.
Lớp huấn luyện chính trị được kết nạp
vào tháng 10-1926. Học xong, Trần Phú trở về nước, được phân công hoạt động tại
Trung Kỳ.
Trước khả năng tránh khỏi sự truy nã
của địch, các đồng chí ở Trung Kỳ yêu cầu Trần Phú phải ra hoạt động ở ngoài
nước. Theo yêu cầu đó, Trần Phú trở lại Quảng Châu vào tháng 1-1927, làm việc
tại Cơ quan của Tổng bộ Thanh niên. Được một thời gian, Nguyễn Ái Quốc cử Trần
Phú đi học tại Trường Đại học Phương Đông, Liên Xô, một trưởng đại học chuyên
đào tạo cán bộ cho Quốc tế Cộng sản.
Ngày 25-6-1927, Nguyễn Ái Quốc gửi thư tới
Chi bộ Đảng, Trường Đại học Phương Đông, thông báo một nhóm cộng sản Việt Nam
đã được thành lập do Trần Phú làm Bí thư. Như vậy, Trần Phú đã được kết nạp vào
tổ chức cộng sản từ năm 1927, chứ không phải được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Liên Xô năm 1928, như có người đã viết.
Trong thời gian học tại Trường Đại học
Phương Đông, Trần Phú tham dự Đại hội VI Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-7-1928
đến ngày 2-9-1928, tại Mátxcơva. Tại Đại hội, ông tiếp thu “Đề cương về cách
mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa”.
Trần Phú học tại Trường Đại học Phương
Đông từ tháng 1-1927 đến tháng 11-1929. Ông đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin
và đường lối của Quốc tế Cộng sản, trong đó có một văn kiện rất quan trọng là “Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin.
Học xong, Trần Phú trở về nước vào
tháng 4-1930 để tiếp tục hoạt động. Công việc đầu tiên là Trần Phú đi tìm hiểu
phong trào công nhân tại một số địa phương như Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai và
phong trào nông dân ở Thái Bình. Trong những ngày đi khảo sát thực tế, ông đã tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối của Quốc tế Cộng sản trong công nhân,
nông dân và nhân dân lao động.
Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung vào
Ủy viên Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổ chức phân công ông soạn
thảo “Luận cương chánh trị” (còn gọi là Luận cương chính trị) của Đảng để trình
Hội nghị Trung ương lần thứ nhất sẽ họp vào tháng 10-1930. Sau một thời gian
soạn thảo, được các đồng chí Ủy viên Trung ương lâm thời và các Xứ ủy góp ý,
Luận cương đã hoàn thành một cách cơ bản. Vì vậy, có thể nói, Luận cương là sản
phẩm của trí tuệ tập thể, trong đó, Trần Phú là người trực tiếp soạn thảo Luận
cương.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hương Cảng (Hồng Kông) vào tháng
10-1930. Tại Hội nghị, thay mặt Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam,
Trần Phú đã trình bày bản “Luận cương Chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương”
(Dự thảo để thảo luận trong Đảng), gọi tắt là “Luận cương chánh trị” hoặc “Luận
cương chính trị”. Theo văn gốc, đây mới chỉ là bản dự thảo, chứ chưa phải là
bản chính thức. Nhưng cũng có thể bản dự thảo đã trở thành bản chính thức sau
khi đã được Hội nghị Trung ương thông qua; vấn đề này cần được tiếp tục nghiên
cứu. Nội dung của Luận cương bao gồm tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương;
Những đặc điểm về tình hình Đông Dương; Tính chất và nhiệm vụ cách mạng Đông
Dương, xác định rõ nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là cách mạng “tư sản dân
quyền” và “cách mạng thổ địa”, tức là chống đế quốc và chống phong kiến, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao bản Luận cương này: “Trong
bản Cương lĩnh (tức Luận cương – ĐĐV) cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng
đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy
rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì
vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai
cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác, thì hoặc bị phá sản, hoặc bị
cô lập. Do dó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai cấp công nhân – không
ngừng được củng cố và tăng cường”8.
Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng
sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương và Trần Phú được toàn thể Hội nghị
nhất trí bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
năm 26 tuổi. Nhiệm vụ này, ông làm từ tháng 10-1930 đến tháng 9-1931.
Sau hội nghị Trung ương lần thứ nhát,
Trần Phú về nước, cùng Trung ương lãnh đạo Đảng và phong trào cách mạng, trọng
tâm đi vào tổ chức quần chúng đấu tranh, củng cố và phát triển Đảng. Ông đã chủ
trì một số Hội nghị Trung ương sau đó, thảo luận sâu sắc thêm một số vấn đề về
tình hình cách mạng Đông Dương và nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Đông Dương; vấn đề
đẩy mạnh công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức của Đảng. Công việc ngày càng
nhiều. Trên cương vị Tổng Bí thư, Trần Phú đã cùng Trung ương Đảng lần lượt
giải quyết nhiều vấn đề trọng đại của Đảng và đất nước.
Lúc này, địch khủng bố ngày càng gắt
gao. Nhiều cán bộ của Đảng đã bị bắt, giết. Tổng Bí thư Trần Phú bị mật thám
Pháp bắt vào lúc 8 giờ sáng, ngày 18-4-1931, tại Chợ Lớn - Sài Gòn. Nhà cầm quyền thực dân tra
tấn ông rất dã man, nhưng ông không một lời khai báo, bảo vệ Đảng đến cùng. Sống
nơi tù ngục, khiến cho sức khỏe của ông ngày càng giảm sút và ông đã trút hơi
thở cuối cùng vào ngày 6-9-1931, tại Nhà thương Chợ Quán, thọ 27 tuổi. Trước
khi nhắm mắt, ông dặn lại các đồng chí của mình: “Hãy giữ vững chí khí chiến
đấu!”9.
Sự nghiệp của Tổng Bí thư Trần Phú là
sự nghiệp cách mạng cao cả. Từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng, cho đến khi qua
đời, diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng Trần Phú sớm trở thành học trò
xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã có những cống hiến to lớn cho Đảng, cho
dân tộc và cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và Đông Dương.
Con người ấy mãi mãi đi vào những trang
sử vẻ vang của Đảng và dân tộc!
------
1.
Hương Cảng (Hồng Kông) vào thời điểm này, chưa thuộc trở lại Trung Quốc, vẫn do
Anh quản lý (ĐĐV).
2.
Năm 1987, Nxb Sự thật xuất bản cuốn sách của Đức Vượng: “Trần Phú Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng”. Cuốn sách này,
sau đó được tái bản nhiều lần vào các năm 1994, 1999… Ngoài ra, tôi còn có
nhiều báo cáo khoa học, tham luận khoa học về Trần Phú tại các cuộc hội thảo
khoa học do các cơ quan chức năng tổ chức.
Năm
2022, Nxb Thông tin và Truyền thông xuất bản cuốn sách của GS,TS Đàm Đức Vượng:
“Chủ tịch Đảng và các Tổng Bí thư của Đảng” (593 trang, khổ giấy lớn), viết về
Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh và các Tổng Bí thư của Đảng, trong đó có Tổng Bí thư
Trần Phú.
3.
Đỗ giải nguyên là đỗ thủ khoa, học vị của người đứng đầu khoa thi hương dưới
thời phong kiến.
4,
Giáo thụ là một chức chuyên trông coi việc giáo dục một phủ, huyện thời phong
kiến và thời Pháp thống trị.
5.
Thành chung là học vị tốt nghiệp cao đẳng tiểu học thời Pháp thuộc.
6.
Dẫn theo sách “Chủ tịch Đảng và các Tổng Bí thư của Đảng” của GS,TS Đàm Đức
Vượng, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2022, tr. 125.
7.
Tại Quảng Châu, Trần Phú còn mang bí danh Lý Thụy và một số bí danh khác.
8.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 407.
9.
Dẫn theo sách “Trần Phú Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng”, của Đức Vượng, tái bản
lần thứ ba, 1999, tr. 84.