Mới cập nhật

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG


 PGS,TS Đàm Đức Vượng
       
         Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ chăm lo đến “vận Nước” mà còn chăm lo đến “vận Đảng”. Người nghĩ đến Nước, đến Đảng, đến Dân với tất cả trái tim và khối óc của mình. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh
     
        Ngay từ năm 1924, từ Liên Xô, Người về đến Quảng Châu, Trung Quốc để chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức (đặc biệt về vấn đề đào tạo cán bộ) cho sự ra đời của một đảng chính trị - cách mạng ở Việt Nam, khi thành lập Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
      Sự ra đời của một đảng chính trị - cách mạng thể hiện sự liên minh của những người cùng tư tưởng đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đảng chính trị - cách mạng là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng trong xã hội. Đảng xuất hiện trong điều kiện khi sự hình thành và cố kết của giai cấp công nhân đã đạt đến một trình độ trưởng thành nhất định. Chính sự xuất hiện này của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân đã nhận thức được lợi ích của mình. Đảng chính trị - cách mạng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận tích cực nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chứ không bao giờ lại bao gồm toàn bộ giai cấp và toàn bộ nhân dân lao động. Đảng chính trị - cách mạng có mục tiêu nhất định được biểu hiện và được luận chứng trong cương lĩnh hoặc trong tuyên ngôn có tính chất cương lĩnh.     
      Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị - cách mạng chân chính. Người nói: “Xây dựng Đảng, có ba mặt: tư tưởng, chính trị, tổ chức”1. Ba mặt này cấu thành đường lối xây dựng Đảng.
     Xây dựng Đảng “về tư tưởng nhất định phải học lý luận Mác – Lênin”2. Đây là vấn đề vừa là nguyên tắc, vừa là phát triển của một đảng cộng sản cầm quyền. “Vì vậy, giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”3. Người đòi hỏi Đảng phải tăng cường tư tưởng giai cấp công nhân và rửa gột những tư tưởng trái với tư tưởng giai cấp công nhân. Người nhận định ở Việt Nam đã lâu đời sống dưới chế độ thực dân và phong kiến, cho nên những tư tưởng bất chính có thể ảnh hưởng vào trong Đảng. Số đông đảng viên là nông dân và tiểu tư sản trí thức, điều đó xuất phát từ đặc điểm của nước ta và việc gia nhập Đảng của họ là tốt và hợp lý, nhưng cũng mang vào Đảng những tư tưởng “phi vô sản”. Vì vậy, Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với những tư tưởng “phi vô sản”. Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Nếu không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí xa rời cách mạng.
      Ngay từ khi còn đi tìm con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương xây dựng một ý thức hệ mới, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Người đã mang ý thức hệ này phổ biến cho lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam lúc ấy đang ở Quảng Châu. Người không đặt vấn đề đấu tranh dân tộc thuần túy, đấu tranh giai cấp thuần túy, mà chủ trương gắn vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
      Xây dựng Đảng về chính trị, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, Đảng phải có đường lối chính trị đúng, đó là đường lối cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng phải có cương lĩnh chính trị đúng, chiến lược và sách lược phải rõ ràng. Có đường lối chính trị đúng đắn và sáng tạo rồi, Đảng còn phải “chống khuynh hướng “tả” và khuynh hướng hữu”4, vì cả hai khuynh hướng này đều dẫn đến sự dao động về chính trị, tư tưởng, nên cần phải uốn nắn.
      Trên thực tế, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ trương thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nếu như ở các nước đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, các nhà cách mạng chủ trương thực hiện cách mạng vô sản, thì Nguyễn Ái Quốc lại chủ trương thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và do chính bản thân dân tộc Việt Nam tiến hành. Người nói:
      “Vận dụng công thức của Các Mác”7, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”8. Vấn đề này đã được Người sau đó phát triển thành quan điểm: “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”9. Người còn nói: “Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất”10.
      Xây dựng Đảng về tổ chức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, Đảng có đầu óc tổ chức, “phải có kỷ luật rất nghiêm, kiên quyết chống những hiện tượng phớt kỷ luật, phớt tổ chức”5. “Đảng phải giữ vững chế độ dân chủ tập trung, phải luôn luôn chính đốn tổ chức, loại bỏ những phần tử xấu ra khỏi Đảng. Phải bồi dưỡng, lựa chọn và dùng cán bộ một cách đúng đắn”6. Vấn đề tự phê bình và phê bình cũng được Người đưa vào nội dung xây dựng Đảng về mặt tổ chức. Nhiều lúc, Người đưa “tự phê bình” lên trên, nhưng cũng có lúc Người đưa “phê bình” lên trên. Tuy theo vấn đề cần nhấn mạnh sao cho phù hợp với nội dung tự phê bình và phê bình.
      Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn giáo dục cho cán bộ cách mạng Việt Nam “về ý thức tổ chức và phương pháp tổ chức”11. Người nhận định: “Chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức”12. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có một tổ chức chính trị - cách mạng đích thực và có nhiều cán bộ giỏi làm công tác tổ chức. Có như vậy, xây dựng Đảng về mặt tổ chức mới phát triển được.
      Trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc đào tạo cán bộ. Theo Người, nếu không đào tạo thì không có cán bộ, nhưng đào tạo phải biết cách chọn lựa những người tốt, những người trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng, những người hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phụng sự dân tộc. Lựa chọn để đào tạo cán bộ là một khoa học, gọi là khoa học nghiên cứu về con người, nên người làm công tác cán bộ phải là người có tâm, có tầm, có tài, vì có những người như thế mới phát hiện được những người tài, đức. Đức và tài hợp thành phẩm chất cách mạng của người cán bộ.
      Trên đây là một số vấn đề về xây dựng Đảng theo quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đương thời, Người bàn đến xây dựng Đảng về các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức. Ngày nay, trên cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên, Đảng đã phát triển, mở rộng xây dựng Đảng sang lĩnh vực kiểm tra và xây dựng Đảng về đạo đức, phong cách, tác phong, làm cho công tác xây dựng Đảng ngày thêm phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình mới trong Đảng và trong xã hội.      Người lãnh đạo và người làm công tác tổ chức – cán bộ cần có sự đổi mới về tư duy xây dựng Đảng. Nếu cứ làm theo nếp cũ, e rằng, công tác xây dựng Đảng sẽ không theo kịp được sự phát triển của kinh tế - xã hội.

(Bài đăng báo Quân đội Nhân dân, số 21128, ngày 3-2-2020)
-------------------------
1.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tập 7, tr. 234.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tập 7,  tr. 234.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tập 7, tr. 234..
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tập 7, tr. 234..
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tập 7, tr. 235..
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tập 7, tr. 235..
7. Nguyên bản: “Formule de Karl Marx”. Công thức này của C.Mác nêu trong Điều lệ của Hội Liên hiệp lao động quốc tế: “Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 128.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, , Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 554.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 128.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 114.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 132.