"Khoa học về lý số" (Dự đoán khoa học về con người và cuộc đời)
Nhà Xuất bản Thông tin và Truyền thông vừa xuất bản cuốn sách "Khoa học về lý số"
(Dự đoán khoa học về con người và cuộc đời) của PGS, TS Đàm Đức Vương
(Đức Vượng), Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu Nhân tài Nhân lực
(ISSTH). Sách dày 437 trang, khổ giấy lớn với 12 chương. Cuốn sách này,
PGS, TS Đức Vượng bắt đầu viết từ mùa Xuân năm 2010 và hoàn thành vào
mùa Đông năm 2014.
Đây là cuốn sách luận giải về lý số bằng khoa học. Tướng - số - vận hợp
thành lý số. Tuy viết bằng thể văn chính luận, nhưng đọc có sức hấp dẫn
từ đầu đến cuối, bởi Tác giả đã phân tích một cách sinh động, dễ hiểu,
dễ nhớ, những nhận định, đánh giá, phân tích và xen vào là kể chuyện
lịch sử về những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình có liên
quan đến tướng - số. Mọi trích dẫn, đều ghi rõ nguồn một cách cẩn trọng.
Cùng với hàng chục cuốn sách khoa học về lịch sử - lý luận - thực tiễn
và 5 tập thơ đã được xuất bản ở trong nước và ngoài nước, sách: "Khoa
học về lý số" (Dự đoàn khoa học về con người và cuộc đời), đã đưa Ông
trở thành nhà khoa học - nhà lý số - nhà thơ đích thực. Phải nói rằng,
sức viết của Ông rất sung mãn và đầy ắp trí tuệ.
1. Trong sách "Khoa học về lý số", Tác giả đã đưa ra những trường
phái, quan niệm khác nhau về tướng - số, trong đó, Tác giả nhấn mạnh
đến trường phái "Vô thần luận". "Vô thần luận" là do hai chữ Hy Lạp "A
théos". "A" có nghĩa là "không" và chữ "théos" có nghĩa là "thần thánh"
đem ghép lại thành "không thần thánh" (Vô thần luận). Phái Vô thần luận
gồm những nhà triết học duy vật của Hy Lạp, như Đêmôcrít, Êpiquya,...
phủ nhận hoàn toàn sự tin tưởng vào thần thánh, thần linh, vào ma quỷ,
tôn giáo, tướng - số, phủ nhận tất cả, chỉ thừa nhận thế giới này có một
thứ độc nhất là nguyên tử. Các Mác đã lấy hai nhân vật này làm đối
tượng nghiên cứu của mình trong luận án tiến sĩ triết học của Ông: "Về
sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và Êpiquya". Tác giả
cuốn sách Khoa học về lý số, thừa nhận những điểm hợp lý của phái Vô
thần luận. Tuy nhiên, Ông cũng cho rằng, Vô thần luận trước C. Mác đã có
những thiếu sót lớn, vì họ chỉ thấy mặt không thuận của tôn giáo, còn
những mặt hợp lý thuộc về thế giới tinh thần của tôn giáo, thì họ lại
không phân tích, và cho rằng, mở rộng được giáo dục là đủ để trừ bỏ
những sự tin nhảm về tôn giáo. Ai đó quan niệm về tôn giáo chỉ thấy mặt
không thuận, mà không thấy mặt thuận là không đúng về nhận thức luận.
Tác giả luận rằng, xem "tướng - số" phải kết hợp với "vận" thành "tướng -
số - vận" & xét về mặt thuật ngữ, giữa "tướng - số" và "vận mệnh"
của con người đều có chung một ý nghĩa, một nội dung, tuy cách biểu hiện
đôi khi thống nhất, nhưng không hẳn đồng nhất. Con người chỉ có thể
nương theo vận số. Nếu gặp vận thịnh, thì tranh thủ khai thác thuận lợi,
gặp vận suy thì an phận thủ thường, có biện pháp phòng ngừa hợp lý để
giảm bớt rủi ro.
Từ trước tới nay, người ta thường xem tướng - số tách ra từng mảng. Có
người chuyên xem số, vận mệnh, giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm
sinh, rồi đoán ra số phận của người đó. Có người chuyên xem tướng, tướng
mặt, tướng đường vân tay, nốt ruồi, rồi đoán ra số phận của người đó.
Rất ít thấy ai biết kết hợp giữa "tướng" - "số" - "vận". "Vận" ở đây là
thời vận, thời điểm, hoàn cảnh xã hội có tác động đến số phận con người.
Chỉ khi nào biết kết hợp giữa xem số, xem tướng, hoàn cảnh xã hội
(vận), thì khi ấy tướng số mới trở thành khoa học.
Xem tướng - số - vận phải dựa trên cơ sở khoa học dự cảm và khoa học dự
đoán. Trong triết học hiện đại, thuật ngữ "dự cảm" được dùng với ý nghĩa
thấy trước một điều gì đó sẽ xảy ra đối với người đó. Dự đoán khoa học
là nghệ thuật dự đoán những hiện tượng, sự kiện, hành vi và quá trình có
thể hay tất nhiên sẽ xảy ra, nhờ vào việc thông hiểu những quy luật
khách quan của khoa học về con người.
Tác giả trình bày về chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, cái tất yếu (tất nhiên) và cái ngẫu nhiên, nhân - quả, hình
thức và nội dung, mối liên hệ, liên tưởng đều có liên quan đến tướng -
số - vận.
Theo Tác giả, thì tướng - số - vận có quy luật của nó. Nói đến quy luật
của tướng - số - vận là nói đến mối liên hệ cơ bản bên trong của con
người xảy ra với các hiện tượng, sự kiện, chi phối sự phát triển tất yếu
của những hiện tượng, sự kiện ấy. Những quy luật đặc thù riêng cho một
hiện tượng, sự việc sắp xảy ra, sẽ xảy ra; những quy luật chung cho một
số lớn các hiện tượng, sự việc sắp xảy ra, sẽ xảy ra; những quy luật phổ
biến của các hiện tượng, sự việc sắp xảy ra, sẽ xảy ra.
Theo Tác giả, thì thiên nhiên (tự nhiên) tác động trực tiếp đến số phận
con người. Mặt Trời, Mặt Trăng, gió, bão, sấm sét, nước thủy triều lên
xuống,... đều có ảnh hưởng trực tiếp đến con người. "Thiên nhiên có lúc
tưởng như vô tình, nhưng kỳ thực lại vận vào vận nước, vận nhà một cách
thường xuyên"1.
Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã phân tích khá kỹ về "bộ ba": tướng - số - vận:
Về tướng: Tác giả đã phân tích khá sâu sắc lý luận về tướng mạo,
diện mạo, cử chỉ, tiếng nói, dáng đi, thân hình, khuôn mặt của mỗi
người,... "Cái cốt lõi trong tướng mệnh học là thần sắc, thần khí, khí
sắc của từng người. Sắc mặt là biểu hiện của khí chất bên trong. Khí
chất tốt hiện lên sắc mặt mỗi người, gọi là quang nhuận. Thần do khí
sinh ra, sắc cũng do khí sinh ra"2. Khí là một vật trong
suốt, không hình dạng, ở trong trạng thái đè nén, có thể choán hết không
gian dành cho nó. Nó nhập vào trong mỗi con người, biến đổi sắc khí
trên mỗi con người khi con người đó có vấn đề về linh hồn báo trước.
Bằng những câu chuyện có thật, Tác giả đã phân tích về tướng mạo của con
người một cách có sức thuyết phục. Sách "Toàn tướng thần biên", Tác giả
đã đưa ra 8 cách xem tướng. Trong cuốn sách này, PGS, TS Đức Vượng đưa
ra 10 cách xem tướng. Cùng với cách xem tướng là các kiểu người.
Về số: Trong lý số học, thì số chính là giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh,
năm sinh của mỗi người, thường gọi là "bát tự". Khi xem vận mệnh của
con người, thì cần phải có sự kết hợp, đối chiếu với nhiều yếu tố khác
nữa, như Bốn mùa, Bát quái, Âm Dương, và nhất là phải kết hợp giữa tướng
- số - vận, xem đó như một khoa học, thì may ra mới có lá số tương đối
đúng.
Về vận: Tác giả phân tích về vận là thời vận, hoàn cảnh xã hội,
yếu tố chính trị xã hội. Vận còn là sự vận động của xã hội tác động đến
vận mệnh của mỗi con người. Số phận của mỗi con người phần lớn nằm trong
hoàn cảnh xã hội. "Sự phát triển của các phương thức sản xuất của cải
vật chất cần thiết cho sự sống của con người, đó là lực lượng căn bản
quyết định toàn bộ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt của mỗi con người, nó
quyết định phần lớn đối với vận mệnh của con người"3.
Tác giả nhận định rằng, theo quan niệm của người xưa, mọi hiện tượng xảy
ra trong cuộc đời con người, từ chuyện giàu nghèo, sang hèn, họa phúc,
may rủi, sống chết, được mất đến học hành thi cử, buôn bán,... đều bị
một thế lực vô hình chi phối, đó là vận mệnh, số mệnh, số phận. Tác giả
nhận định mỗi người đều có số mệnh của mình. Quan niệm về vận mệnh, số
mệnh, số phận của con người đã có từ thời cổ đại. Theo Khổng Tử, sự sống
chết, giàu nghèo, sướng khổ của một người đều có liên quan mật thiết
đến đấng tối cao, mà con người chỉ có thể khuôn theo. Vì vậy, Khổng Tử
kết luận: "Nếu không hiểu về số mệnh, không phải là người quân tử". Ở
đây, PGS, TS Đức Vượng phân tích vấn đề không phải chỉ dừng lại ở số
mệnh, mà theo Tác giả, điểm mấu chốt là phải vượt lên số mệnh mà sống,
đấy mới là bậc chính nhân quân tử.
2. Trong sách "Khoa học về lý số", PGS, TS Đức Vượng đã phân tích
một cách có sức thuyết phục lịch sử về tướng - số. Về nguồn gốc ra đời
của tướng - số, theo Tác giả, nó bắt đầu từ quốc gia nào cần phải được
tiếp tục nghiên cứu, vì hiện nay, phần lớn, chúng ta mới chỉ tiếp xúc
với các sách tướng - số của Trung Quốc, chứ chưa tiếp xúc nhiều với sách
tướng - số của Ấn Độ và các nước khác, cho nên chưa thể khẳng định
nguồn gốc ra đời của tướng - số bắt đầu từ quốc gia nào?
Theo sách "Bạch hổ thông nghĩa" và sách "Luận hành" của Vương Sung, một
nhà lý số lớn của Trung Quốc cổ đại, thì thuật tướng - số của Trung Quốc
ra đời vào thời Lưỡng Hán (206 trước Công nguyên), đến nay đã là hơn
2.200 năm. Trải qua các triều đại của Trung Quốc, tướng - số cứ lớn dần
lên, cùng với các cuốn sách ngày càng nhiều thêm. Có thể nói, từ đời
Đường, đời Tống trở đi, thuật tướng - số Trung Quốc chính thức bước vào
giai đoạn hưng thịnh và phát triển rộng rãi tới các đời sau. Người đời
sau đọc các sách tướng - số của người đời trước, rồi viết bổ sung, cứ
thế, cứ thế, số sách về thuật tướng - số ngày càng nhiều, có tới hàng
vạn quyển, đọc không xuể.
PGS, TS Đức Vượng đã dành nhiều trang phân tích về tướng - số xuất hiện ở
Việt Nam từ khi nào? Người Bách Việt xưa tin ở mệnh trời tác động đến
số mệnh con người rất sớm, cách đây khoảng trên dưới 2.000 năm, mặc dù
lúc này khái niệm tướng - số chưa xuất hiện. Người Bách Việt xưa, khi họ
phải chống đỡ với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của xã hội, của sự
sống, thì nảy sinh tư tưởng tìm đến tín ngưỡng. Bên cạnh đó, thuật tướng
- số của Trung Quốc du nhập vào, dần dần hình thành nên hệ thống tướng -
số ở Việt Nam. Sách "Đại Việt sử ký Toàn thư" dẫn sách của Chu Dịch nói
rằng: "Có trời đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có
vợ chồng, có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có
vua tôi".
PGS, TS Đức Vượng phân tích, tại Việt Nam, qua các triều đại: Kỷ họ Hồng
Bàng, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, triều đại Hùng Vương,
Triều Đinh, triều Tiền Lê, triều Lý, triều Trần, triều Hồ, triều Lê sơ
đến hậu Lê, triều Tây Sơn, triều Nguyễn,... tướng - số phát triển theo
từng chế độ chính trị, lúc nhặt, lúc thưa...
3. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã phân tích
khá sâu sắc lý luận về tướng - số (lý số) - Âm Dương - Can Chi - Ngũ
Hành - Tứ Trụ - Số Tử vi Chiêm Tinh học - Bát Quái - Chu Dịch.
Trong cuốn sách "Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc" của hai tác giả Hồng
Phi Mô và Khương Ngọc Trân đã đề cập đến lý luận cơ bản của thuật tướng
số là Thiên Can - Địa Chi; Âm Dương - Ngũ Hành. Họ ghép hai cặp phạm trù
Thiên Can - Địa Chi là một và Âm Dương - Ngũ Hành là một. PGS, TS Đức
Vượng cho rằng, Âm Dương phải là một cặp phạm trù riêng và Ngũ Hành cũng
phải là một cặp phạm trù riêng, mặc dù hai cặp phạm trù này có liên
quan mật thiết với nhau. Ngoài ra, theo PGS, TS Đức Vượng, lý luận về
tướng số còn phải tính đến Tứ Trụ, Số Tử Vi, Chiêm Tinh học, lại có liên
quan đến Chu Dịch thì mới thành lý số hoàn chỉnh.
Lý luận phản ánh của tướng - số (lý số) là sự thể hiện từng bộ phận của
tướng - số (lý số), liên quan với nhau của tướng - số (lý số). Sự phản
ánh với tính cách một nguyên lý về nhận thức đã được đúc kết thành những
kinh nghiệm có tính chất tổng kết về số mệnh của mỗi con người. "Đặc
tính của lý luận phản ánh trong tướng - số (lý số) là dựa vào những vấn
đề đặt ra như Âm Dương, Can Chi, Ngũ Hành, Tứ Trụ, Tử Vi, Chiêm Tinh
học, Chu Dịch, trên cơ sở đó mới có thể phân tích, tổng hợp, đoán định
được một cách tương đối đúng về số mệnh của con người trong quá khứ,
hiện tại, tương lai"4.
Về Âm Dương: Theo PGS, TS Đức Vượng, "Âm - Dương là học thuyết
thể hiện sự đối lập trong thống nhất của vạn vật trong thế giới tự
nhiên, xã hội, con người; là hai mặt tương phản, nhưng lại tác động vào
nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Các mặt đối lập là những yếu tố, những mặt
thống nhất không thể tách rời; cũng có thể trong cùng một mặt, nhưng lại
thâm nhập lẫn nhau; đồng thời, cũng có thể loại trừ lẫn nhau. Không có
các mặt đối lập nếu không có sự thống nhất của các mặt đối lập đó, không
có sự thống nhất nếu không có các mặt đối lập (Âm Dương). Sự thống nhất
của các mặt đối lập Âm Dương chỉ là tương đối. Quy luật này giải thích
nguồn gốc bên trong khách quan của mọi sự vận động (Âm Dương để đạt tới
thống nhất"5. Vì vậy, có thể nói "Âm Dương vừa là bản chất,
vừa là hiện tượng, đồng thời cũng là quy luật vận động của tự nhiên, xã
hội và con người"6.
Về Ngũ Hành: Theo PGS, TS Đức Vượng, "Ngũ Hành" là tên gọi của
người phương Đông, còn người phương Tây gọi là "Nguyên tố". Đó là "5
hành" (5 loại vật chất cơ bản, 5 nguyên tố): Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Sự vận động biến hóa của 5 loại vật chất này đã tạo nên thế giới muôn
màu muôn vẻ. Con người và vạn vật nảy sinh ra cũng từ 5 nguyên tố này +
"nguyên tố không khí" mà người đời xưa không nhìn thấy, cho nên không
tổng kết. Đây là lý luận trong quá trình nhận thức về thế giới vật chất
của con người từ trước đến nay. Ngũ Hành là sự vận động của thế giới vật
chất gồm Kim (kim loại, đá, quặng), Mộc là cây cối, Thủy là nước. Hỏa
là lửa, Thổ là đất. "Người đời xưa quan niệm trong thế giới tự nhiên,
thế giới con người và thế giới động vật đều do 5 nguyên tố này tác
thành. Nó không ngừng biến đổi, vận động biến hóa. Nó ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống con người. Nếu không có nó, con người không thể duy
trì sự sống, bởi vì chính nó sinh ra sự sống. Sự tuần hoàn liên tục của
vũ trụ và trái đất cũng nhờ có 5 nguyên tố này"7.
Thuyết Ngũ Hành nhấn mạnh đến chỉnh thể. Nó giải thích về mối quan hệ và
các hình thức vận động của trời đất. Thuyết Ngũ Hành liên quan mật
thiết đến vũ trụ và thiên văn học. Ngũ Hành tạo ra năng lượng, cái để đo
sự vận động của vật chất.
Về Can Chi (Thiên Can Địa Chi): Can Chi là Trời Đất. Mỗi Thiên
Can trong 10 Thiên Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm,
Quý) đều có thuộc tính Ngũ Hành tương ứng. Mỗi Địa Chi trong 12 Địa Chi
(Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) cũng có
thuộc tính của Ngũ Hành tương ứng. Giữa Âm Dương - Ngũ Hành - Can Chi có
mối quan hệ mật thiết với nhau.
Về số Tử vi và Chiêm tinh học: Đây là vấn đề xem sao trời (tinh
tú) để đoán vận mệnh của mỗi con người. Chiêm tinh học là khoa học
nghiên cứu khí của các tinh tú chiếu vào số mệnh của mỗi con người. Nhờ
nghiên cứu Chiêm tinh học một cách đúng đắn, khoa học, con người sẽ hiểu
biết mệnh trời, biết tin ở mình và sống cuộc đời thoải mái, không bi
quan, không lạc quan, yên vui, tự tại. Từ ngàn xưa, Chiêm tinh học vẫn
được coi là một khoa học quan trọng. Chiêm tinh gia có thể sánh ngang
với giáo sĩ. Theo đạo sĩ người Ấn Độ S.Babu, thì khoa Chiêm tinh vẫn bị
người đời hiểu lầm và diễn tả sai lạc rất nhiều. Vì vậy, các nhà khoa
học cần phải nghiên cứu nghiêm túc hơn nữa về bộ môn này để lý giải
Chiêm tinh với góc độ nghiên cứu khoa học, gọi là khoa học về Chiêm
tinh.
Về Kinh Dịch (Chu Dịch): Đây chính là bộ sách ra đời từ thời Phục
Hy (Bào Hy), cách đây khoảng gần một vạn năm. Bộ sách này phân tích về
sự vận động, chuyển dịch của Vũ trụ - Trời Đất, liên quan đến vận mệnh
và cuộc sống của con người, được xem như quy luật vận động của cuộc sống
con người.
Theo PGS, TS Đức Vượng, bộ sách này không giống với các bộ sách thông
thường ở chỗ biểu hiện ban đầu không phải là chữ, mà là những vạch. Từ
đời vua Phục Hy đến cuối Nhà Thương, Kinh Dịch (Chu Dịch) vẫn chỉ là hệ
thống các vạch liền, vạch đứt, chưa có tên hiệu, chữ nghĩa gì cả. Cho
đến sang đầu Nhà Chu (cách đây khoảng hơn ba nghìn năm), vua Chu Văn
Vương mới đem những quẻ (vạch) của vua Phục Hy và đặt từng tên, viết
thêm lời (chữ) ở dưới mỗi quẻ. Vì vậy, đến Nhà Chu, Kinh Dịch được mang
tên mới: Chu Dịch. Kinh Dịch và Chu Dịch là một bộ sách liên hoàn được
bổ sung qua các triều vua. Từ thời Chu Văn Vương, Kinh Dịch (Chu Dịch)
mới trở thành chữ viết. Khổng Tử cũng đã bổ sung vào Kinh Dịch (Chu
Dịch) một số thiên.
Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã trình bày một cách dễ
hiểu, có liên hệ với thực tế về 64 quẻ trong Kinh Dịch (Chu Dịch), từ
quẻ số 1 là "Càn" - Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, đến quẻ số 64 (quẻ cuối
cùng) là "Vị tế" - Dừng lại khi thấy phải dừng.
4. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã phân tích
về các nhà lý số giỏi, cụ thể là các nhà tiên tri của Việt Nam và các
nước. Về các nhà tiên tri của Việt Nam, Tác giả đề cập đến Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Ngô Sĩ Liên, Hồ Chí Minh. Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình) là một
nhà lý số, nhà tiên tri giỏi, đã dự đoán đất nước sẽ hưng thịnh sau 500
năm. "Hồng Lam ngũ bách nghinh thiên hạ/Hưng tổ diên trường ức vạn
xuân". Có nghĩa là đất nước Hồng Lam này sẽ được hưng thịnh sau khoảng
500 năm. Ngô Sĩ Liên là một nhà lý số, nhà tiên tri giỏi, trong "Đại
Việt Sử ký toàn thư", Ông đã bàn nhiều đến dự đoán về vận mệnh đất nước,
rằng, "thánh nhân trăm năm mới sinh" một lần, đủ số lại trở về đầu. Chủ
tịch Hồ Chí Minh được xem như một vị thánh nhân. Người mất năm 1969.
Đến nay (2015) đã được 46 năm. Như vậy, phải còn 46 năm nữa (năm 2069),
Việt Nam lại mới xuất hiện thánh nhân. Hồ Chí Minh là một nhà lý số, nhà
tiên tri giỏi. Ông đoán vận nước khá chính xác. Vào khoảng năm 1919
hoặc năm 1920, Ông viết bài thơ lục bát "Việt Nam yêu cầu ca", tiên đoán
đồng bào Nam Việt nhất định sẽ giành được độc lập, tự do. Lời tiên đoán
này đến năm 1945, đất nước đã giành được độc lập, tự do. Tháng 2-1942,
Hồ Chí Minh viết truyện thơ dài: "Lịch sử nước ta". Cuối truyện thơ,
Người viết: "Năm 1945, Việt Nam độc lập". Quả nhiên, năm 1945, Việt Nam
độc lập. Năm 1960, Người viết: "Đến năm 1975, miền Nam Việt Nam giải
phóng". Quả nhiên, đến năm 1975, miền Nam Việt Nam giải phóng, đất nước
thống nhất.
Với các nhà tiên tri trên thế giới, PGS, TS Đức Vượng đã phân tích về
nhà tiên tri người Pháp Nostradamus, "đoán như thần"; nhà tiên tri người
Thụy Điển Emanuel Swedenborg; nhà tiên tri Trung Quốc, quân sư Khổng
Minh Gia Cát Lượng; nhà tiên tri người Mỹ, bà Jean Dixon; nhà tiên tri
người Bungari, bà Baba Vanga.
5. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã dành hẳn
một chương để bàn thêm về con người có liên quan đến tướng - số - vận.
Con người là một đề tài đã quá cũ, nhưng mãi mãi vẫn còn rất hấp dẫn mỗi
khi nghiên cứu nó. Người ta vẫn có thể khám phá ra những điều hết sức
mới mẻ trong một đề tài đã quá cũ đó. Những vấn đề mới của một đề tài cũ
vẫn luôn luôn được đặt ra và nghiên cứu. Đây là một đề tài "muôn thuở",
nhưng cũng là "một thuở". "Con người ta muốn cho cõi lòng mình được
thanh thản, xin hãy sống chung với thiên nhiên, với trời đất. Sống sát
với thiên nhiên, trời đất, con người sẽ trở nên phóng khoáng"8.
"Trong cuộc sống, mỗi người có một thân, một phận, một hoàn cảnh, chẳng
ai giống ai. Chết đi cũng mỗi người mỗi mồ. Thể xác dần dần biến thành
đất cát, về nơi cát bụi, hòa chung với "tam sơn, tứ hải, nhất phần điền"9.
Vấn đề mà PGS,TS Đức Vượng đặt ra là xây dựng con người khỏe mạnh, trí
tuệ từ trong trứng nước, tạo dựng lên một người có số mệnh, số phận tốt.
Theo PGS, TS Đức Vượng, vận mệnh con người có thể điều chỉnh được,
"nhân định thắng thiên".
6. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã dành hẳn
một chương để nêu những vấn đề có liên quan đến tướng - số, như vấn đề
hôn nhân và sinh con đẻ cái; vấn đề phong thủy và nhà ở; vấn đề mồ mả,
tổ tiên, ông bà, cha mẹ; vấn đề cúng giỗ và cầu siêu; vấn đề có kiếp
trước, kiếp sau không; vấn đề phù thủy; vấn đề thôi miên; yếu tố di
truyền; yếu tố gia đình; chỉ số IQ; ADN; nhóm máu; năng lượng; vấn đề
đặt tên cho con.
7. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã dành hẳn
một chương bàn về linh hồn - tâm linh - linh tính - thần giao cách cảm -
may rủi cuộc đời. Bằng những cứ liệu cụ thể, Tác giả đã làm sáng tỏ vấn
đề có linh hồn không? Có tâm linh không? Thần giao cách cảm là thế nào?
Có linh tính không? Có họa phúc, may rủi không? "Ở đời, may rủi, họa
phúc khôn lường, khó lòng biết được. Trong cái may, cái phúc, thường có
cái rủi, cái họa đững bên cạnh nhau, rập rình. Một cái có hình, một cái
vô hình. Đến khi chuyển đổi, cái vô hình, thành cái có hình, và ngược
lại. Vì vậy, đối với sự may rủi, họa phúc là điều đã, đang và sẽ xảy ra.
Có điều là khi gặp may, gặp phúc, ta cố giữ gìn, khi gặp rủi, gặp họa,
ta cố bình tĩnh xem xét vấn đề tìm giải pháp khắc phục"10.
Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thừa nhận ở đời có cái rủi và cái may.
Vấn đề đặt ra là phải biết "Biến cái rủi thành cái may..."11.
8. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã đưa ra
những điều kiện để xem tướng - số - vận: Điều kiện về tâm lý, tâm lý học
(yếu tố tâm lý); điều kiện về tri thức; điều kiện về tri giác và trực
giác; điều kiện về thần kinh. Nhà tướng - số chỉ có thể hội đủ những
điều kiện trên đây, thì mới có thể đoán định được vận mệnh, số phận của
con người và cuộc đời được.
9. PGS, TS Đức Vượng phân tích cặn kẽ trong một chương về vấn đề
hãy tự phấn đấu, tự vươn lên số mệnh, số phận để tự khẳng định được
chính mình; hãy tự xem xét lại mình một cách nghiêm túc để vượt qua số
phận mà tiến lên trên trường đời. Thực ra, đời rất ít cho ta bởi ta cũng
chẳng có gì cho đời, cho nên chỉ có tự phấn đấu, tự trông vào mình, thì
mới có cơ may đứng được và tiến lên trên trường đời.
10. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng đã đưa ra một
vài vấn đề có thể khắc phục được số phận nghiệt ngã, như hãy tự thân
vận động, tự hoàn thiện mình; cách cư xử ở đời. Xin hãy tin vào tướng -
số một nửa, còn một nửa hãy tin vào chính bản thân mình; mang tình
thương đến với con người; hãy rèn luyện để có sức khỏe; đọc nhiều, viết
nhiều, luôn luôn động não để giữ được trí tuệ minh mẫn, tránh được xuất
huyết não. Đó là những vấn đề chúng ta cần quan tâm.
11. Trong sách Khoa học về lý số, PGS, TS Đức Vượng nêu lên những
kinh nghiệm bạn có thể tự xem được tướng số của mình. Khi tự xem tướng
cho mình, bạn cần lưu ý đến thân thể bạn, từ khuôn mặt đến vầng trán,
đôi mắt, cái mũi, vành tai, miệng, chân tay,... rồi đối chiếu với sách
hướng dẫn, bạn có thể tự xem cho mình một cách khá chính xác. Khi xem
số, bạn phải hỏi cha mẹ mình sinh mình vào giờ nào, ngày nào, tháng nào,
năm nào, rồi đối chiếu với sách hướng dẫn, thế là bạn có một lá số hoàn
hảo. Bạn nên cân nhắc cẩn thận với những chữ số. Tùy theo từng người mà
con số có thể vận vào đời bạn một cách hanh thông hay không hanh thông.
12. Trong sách Khoa học về tướng - số, PGS, TS Đức Vượng đã nêu
lên một số kinh nghiệm rút ra khi xem tướng - số, trong đó, Tác giả nhấn
mạnh đến kinh nghiệm thực tiễn, từ đó mà có sự tổng kết về tướng - số,
và qua đó, nâng thành lý luận về tướng số, đó là lý số.
Lý số giải thích câu nói của Khổng Tử: "Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại
thiên" (sống chết có số, phú quý tại trời). Theo PGS, TS Đức Vượng, dưới
góc độ lý số, câu nói này, chỉ đúng một nửa, còn một nửa chính là "Nhân
định thắng thiên". Đúng vậy, nếu con người ta cứ an phận với sống, chết
có số, phú quý tại trời, thì sẽ dẫn đến cái cảnh "ngồi chờ chết", rất
nguy hiểm. Không phải tất cả những chữ của "thánh hiền" cũng đều đúng.
Vượt lên số phận nghiệt ngã để trưởng thành mới xứng đáng là anh hùng
hào kiệt ở đời.
Phụ lục của cuốn sách có giải nghĩa cặn kẽ về 120 câu thơ của cụ Tả Ao
về địa đạo và địa linh. Cuối cùng là bài thơ dài 363 câu của PGS, TS Đức
Vượng tổng kết về lý số.
Bài và ảnh: Quỳnh Anh
*****
Chú thích:
1. PGS, TS Đàm Đức Vượng: Khoa học về lý số (Dự đoán Khoa học về con người và cuộc đời), Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2015, tr.38. 2. Khoa học về lý số, sđd, tr. 41. 3. Khoa học về lý số, sđd, tr.60. 4. Khoa học về lý số, sđd, tr. 101. 5,6. Khoa học về lý số, sđd, tr. 103. 7. Khoa học về lý số, sđd, tr. 105. 8,9. Khoa học về lý số, sđd, tr. 234. 10. Khoa học về lý số, sđd, tr. 437, 438. 11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 3-4.