NHỮNG NGHIÊN CỨU MỚI VỀ CON NGƯỜI (Bài 18): CON NGƯỜI VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT PHONG KIẾN
PGS,TS Sử học – Cử nhân Ngữ văn Đàm Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học Nghiên cứu Nhân tài Nhân lực (ISSTH)
Các sách, báo từ trước
tới nay đã nói nhiều đến xã hội phong kiến, một số sách, bào đã phân tích về phương
thức sản xuất phong kiến. Trong bài này, tôi muốn nói đến con người trong
phương thức sản xuất phong kiến đó. Đó là chỗ mới trong bài viết này.
Xã hội (hay chế độ) phong kiến là hình
thái kinh tế xã hội được thiết lập do sự phân công hay tan rã của chế độ chiếm
hữu nô lệ hay chế độ công xã nguyên thủy.
Phương thức sản xuất
phong kiến là phương thức sản xuất của cải vật chất mà cơ sở là chế độ sở hữu
của giai cấp phong kiến về tư liệu sản xuất chủ yếu, tức là ruộng đất và sự lệ
thuộc về thân thể của những người sản xuất, tức là nông dân, vào giai cấp phong
kiến, lãnh chúa. Những người nông dân này tiến hành sản xuất nông nghiệp trên
ruộng đất của các thế lực phong kiến, lãnh chúa.
Theo “Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia”
(tổng hợp các nguồn tài liệu khác), thì phong kiến có nghĩa là “phong tước và
kiến địa”, một từ gốc Hán – Việt, tiếng Pháp gọi là “féodalité” bắt nguồn từ
chữ “feod” trong tiếng Latinh, nghĩa là “lãnh địa cha truyền con nối”, mà điểm
xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị từ thời Tây Chu. Vào thời kỳ này, vua Chu
ban hành chế độ đem đất đai phong cho những người thân thuộc để kiến lập các
nước chư hầu, gọi là “phong kiến thân thích”.
Chế độ phong kiến, nói chung, ra đời vào
thế kỷ V cho đến khoảng thế kỷ thứ X, thì bị chế độ tư bản (tư sản) thay thế,
do sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhưng trong một số nước (kể cả những
dân tộc Xlavơ ở phương Đông), thì do sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy,
vì những nước này không qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Xã hội phong kiến phương
Đông hình thành sớm, nhưng phát triển chậm, không đồng đều và kết thúc muộn hơn
so với xã hội phong kiến phương Tây. Tại phương Đông, phong kiến Trung Quốc là
nặng nề nhất. Quy mô của nó lớn chưa từng thấy, nó có cả một hệ thống từ vua
chúa đến địa chủ. Xã hội phong kiến phương Tây phát triển muộn hơn và kết thúc
sớm hơn, do sự phát triển của phương thức tư sản mọc lên nhanh và lấn át.
Cả xã hội phong kiến phương Đông và xã hội phong kiến phương Tây có
chung một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, và do vậy, nền kinh tế chủ yếu
trong chế độ phong kiến là kinh tế nông nghiệp. Phương Đông phần lớn là ở nông
thôn. Phương tây phần lớn là ở trang trại, thái ấp.
Khái niệm nông nghiệp lúc đầu chủ yếu là lúa nước, sau bao gồm cả cây trồng (lâm nghiệp), đánh bắt cá (ngư nghiệp) và chăn nuôi (gia súc và gia cầm). Tuy nhiên, đi vào cụ thể của từng nước, có nơi vẫn tách việc trồng lúa nước ra khỏi việc đánh bắt cá, trồng cây và chăn nuôi.
Khái niệm nông nghiệp lúc đầu chủ yếu là lúa nước, sau bao gồm cả cây trồng (lâm nghiệp), đánh bắt cá (ngư nghiệp) và chăn nuôi (gia súc và gia cầm). Tuy nhiên, đi vào cụ thể của từng nước, có nơi vẫn tách việc trồng lúa nước ra khỏi việc đánh bắt cá, trồng cây và chăn nuôi.
Phương thức sản xuất phong kiến là phương
thức sản xuất thứ ba của loài người, sau các phương thức sản xuất nguyên thủy
và phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
Đặc điểm của phương thức sản xuất phong
kiến là quyền sở hữu của chúa phong kiến về ruộng đất và quyền sở hữu bộ phận
đối với người lao động sản xuất nông nô. Nông nô trong xã hội phong kiến khác
với nô lệ trong xã hội nô lệ ở chỗ họ làm chủ cơ nghiệp và công cụ sản xuất của
họ, vì thế, họ cũng có phần gắn bó với lao động, vì sau khi đã nộp tô cho chủ
phong kiến (địa chủ), họ có thể làm việc của họ. Trong chế độ phong kiến, quan
hệ giữa chúa phong kiến (ruộng đất) với nông dân dựa trên sự chiếm đoạt của địa
chủ (giai cấp chúa đất) đối với những sản phẩm do lao động của nông dân làm ra,
dưới những hình thức địa tô phong kiến khác nhau. Ngoài ra, nông dân còn phải
nộp cho nhà nước cái gọi là thuế thân và những thuế khác, thực chất là sự
ràng buộc của người nông dân vào địa chủ.
Về mặt giai cấp, xã hội phong kiến có hai
giai cấp cơ bản: địa chủ và nông dân. Ngoài ra, còn có những người làm nghề thủ
công, buôn bán vừa và nhỏ, gọi chung là tiểu chủ. Giai cấp địa chủ và giai cấp
nông dân thường xuất hiện ở phương Đông. Còn ở phương Tây thì có lãnh chúa và
nông nô. Tuy nhiên, tại một số nước ở phương Tây cũng có địa chủ và nông nô như
ở phương Đông.
Con người trong phương thức sản xuất phong
kiến là con người bóc lột và con người bị bóc lột. Con người bị bóc lột là nông
dân, nông nô. Con người bóc lột là lãnh chúa, địa chủ, phong kiến tập quyền.
Con người bị bóc lột chiếm số đông trong dân cư của xã hội phong kiến, nhưng
của cải, vật chất ít. Còn con người bóc lột chiếm số ít, nhưng của cải, vật
chất lại rất nhiều. Đây là chỗ khác nhau giữa những con người trong xã hội
phong kiến.
Chế độ bóc lột của xã hội phong kiến chủ
yếu là bằng tô thuế. Địa chủ ở phương Đông và lãnh chúa ở phương Tây đều nắm
phần lớn ruộng đất, giao cho nông dân (phương Đông) và nông nô (phương Tây)
lĩnh canh, cày cấy rồi thu địa tô. Địa tô là nộp một phần thóc lúa và các nông
sản cho địa chủ và lãnh chúa. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến phương Tây
là lãnh đại với giai cấp lãnh chúa và nông nô. Hệ thống đẳng cấp dựa trên quan
hệ lãnh chúa và chư hầu, tình trạng cát cứ kéo dài. Tại phương Đông, quan hệ
ruộng đất thực chất là quan hệ giữa địa chủ và nông dân. Địa chủ nắm ruộng đất,
nông dân làm thuê trên mảnh đất đó. Một số hộ thuộc thành phần trung nông có
ruộng đất riêng, nhưng nhỏ so với ruộng đất của địa chủ.
Mâu thuẫn giai cấp đối kháng chủ yếu trong
xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, giữa lãnh chúa và nông
nô.
Nhà nước phong kiến ra đời ngay sau khi phương
thức sản xuất phong kiến ra đời. Trong khi nghiên cứu, cũng có ý kiến cho rằng,
giữa phương thức sản xuất phong kiến ra đời và nhà nước phong kiến ra đời cùng
một thời điểm. Vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu. Có điều là phương thức
sản xuất thuộc hạ tầng (hạ tằng) cơ sở, còn nhà nước thuộc thượng tầng (thượng
tằng) kiến trúc. Ở cả phương Đông và phương Tây, thể chế nhà nước phong kiến do
vua đứng đầu, thực hiện chế độ quân chủ (quân là vua, chủ là làm chủ). Chế độ
quân chủ tức là chế độ do vua (hoàng đế) đứng đầu. Ở phương Đông thực hiện chế
độ tập quyền và ở phương Tây thì từ phân quyền đến tập quyền; nhưng cũng tùy
theo hoàn cảnh của mỗi nước mà áp dụng cho thích hợp.
Đặc trưng của những điều kiện và những
hậu quả của nền kinh tế lao dịch, điển hình của chế độ phong kiến là sự thống
trị của nền kinh tế tự nhiên, sự phân
chia ruộng đất và công cụ lao động cho những người sản xuất trực tiếp, chế độ
cưỡng bức siêu kinh tế và hậu quả của tình hình đó là trình độ kỹ thuật thấp,
thủ cựu.
Dưới chế độ phong kiến, người chiếm hữu
ruộng đất là giai cấp thống trị, vua chúa, quan lại, địa chủ và đối lập với
giai cấp đó là nông dân. Quyền sở hữu ruộng đất là cơ sở để cho các thế lực
phong kiến chiếm đoạt lao động hoặc sản phẩm không công tức là địa tô phong
kiến. Tính độc lập tương đối về kinh tế của nông dân đã dẫn đến chỗ phát triển
lực lượng sản xuất mà trước hết là phát triển kinh tế nông nghiệp – ngành quyết
định của phương thức sản xuất phong kiến. Người nông dân đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội phong kiến,
nhưng lợi nhuận thu về lại là vua chúa, quan lại, địa chủ, còn nông dân chỉ là
người làm thuê. Đó là chỗ bất công nhất
và cũng là cơ sở để dẫn đến mâu thuẫn đối kháng trong xã hội phong kiến. Đó
cũng là một lý do quan trọng để giải thích vì sao trong xã hội phong kiến lại
có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đến thế. Vào thế kỷ XIV, XV, tại các nước
Tâu Âu đã bắt đầu diễn ra cuộc đấu tranh để giải phóng của nông dân khỏi sự lệ
thuộc về thân thế vào các tầng lớp trong kiến, sau đó là việc dùng bạo lực để
tách họ khỏi ruộng đất trong sự làm thuê. Đây cũng là một tiền đề dẫn đến
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người
bị bóc lột và những người bóc lột đã được tiến hành trong suốt cả thời kỳ của
chế độ phong kiến. Đây thực chất là cuộc khởi nghĩa của nông dân phương Tây,
như phong trào Giắccơly ở Pháp vào năm 1358; cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo
của của Oát Taylơ ở Anh vào năm 1381; những cuộc chiến tranh Huxít ở Séc vào
nửa đầu thế kỷ XV; cuộc chiến tranh nông dân ở Đức (1524-1525); những cuộc
chiến tranh dưới sự lãnh đạo của I.Bôlốtnicốp (1606-1607), của X.Rađin
(1667-1671) của E.Pugatờsốp (1773-1775) ở Nga,… Những cuộc cách mạng tư sản,
đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản Pháp vào cuối thế kỷ XVIII đã giáng một đòn
quyết định vào chế độ phong kiến. Chủ nghĩa tư bản đã chính thức bước lên vũ
đài chính trị để thay thế chế độ phong
kiến. Tại nước Nga, chế độ phong kiến chiếm địa vị thống trị từ thế kỷ IX đến
thế kỷ XIX. Đầu thế kỷ XX, Cách mạng tháng Mười nổ ra vào năm 1917, nước Nga
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, lấy tên là Liên Xô. Đến năm 1991, Liên Xô
sụp đổ, trở về với nước Nga như hiện nay. Đến nay, người ta khó đoán định nước
Nga hiện nay thuộc xu hướng chính trị nào? Cuộc cải cách nông dân năm 1861 đã
xóa bỏ chế độ nông nô ở Nga. Song, những tàn tích của chế độ phong kiến ở Nga
vẫn còn cho đến trước khi nổ ra Cách mạng tháng Mười Nga vào năm 1917. Sắc lệnh
về ruộng đất do Đại hội II toàn Nga các Xôviết thông qua ngày 26 tháng Mười
1917 (ngày 8 tháng Mười một, lịch Nga) năm 1917, lần đầu tiên trong lịch sử
loài người, bắt đầu thủ tiêu chế độ ruộng đất của địa chủ và xóa bỏ những tàn
tích của chế độ phong kiến ở Nga. Những tàn tích của chế độ phong kiến, chế độ
đại sở hữu ruộng đất của địa chủ, chế độ lao dịch,… là đặc trưng của một số nước
ở châu Phi, châu Á và các nước Mỹ latinh. Vì vậy, việc thủ tiêu các quan hệ
ruộng đất phong kiến và nửa phong kiến là một trong những nhiệm vụ của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc.
Từ những cuộc nổi dậy của nông dân, dẫn
đến những cuộc cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất là biện pháp của nhà nước
nhằm thay đổi quan hệ chiếm hữu và quan hệ sử dụng ruộng đất. Những cuộc cải
cách này thường diễn ra dưới chủ nghĩa tư bản.
Sự ra đời của các thành thị, trong đó tập
trung thủ công nghiệp và thương nghiệp, thể hiện sự phát triển phân công lao
động xã hội, tức là việc tách nghề thủ công ra khỏi nông nghiệp, làm cho một
tầng lớp xã hội mới ra đời, đó là tầng lớp thị dân, mà sau đó, người ta tách
tầng lớp này ra khỏi giai cấp nông dân, thành giai cấp tiểu tư sản. Nông dân
đóng vai trò phát triển nông nghiệp, trong khi tầng lớp thị dân đóng vai trò
phát triển sản xuất hàng hóa.