Mới cập nhật

Kỷ niệm lần thứ 90 ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 – 3-2-2020)

NGÀY XUÂN NHỚ BÁC HỒ TRONG HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG

PGS,TS Đàm Đức Vượng
     
      Xuân Canh Tý - 2020 lại về trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Đón Xuân Canh Tý – 2020, lòng chúng ta bồi hồi nhớ đến Xuân Canh Ngọ - 1930, mùa Xuân của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Khoảng cách đã 90 năm kể từ ngày thành lập Đảng (1930 đến năm 2020).
      Đón Xuân Canh Tý, lòng chúng ta bồi hồi nhớ đến Bác Hồ (đồng chí Nguyễn Ái Quốc) trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lòng chúng ta lại nảy sinh một số ý mới viết về Bác và Đảng.
      Trước khi đến Hồng Kông dự Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua một cuộc hành trình cứu nước đầy gian khổ từ châu Âu trở về phương Đông. Vào một ngày của tháng 6-1928, Nguyễn Ái Quốc từ Mátxcơva, Liên Xô, qua Đức, bắt đầu cuộc hành trình về phương Đông. Từ Đức, Người qua Thụy Sĩ, rồi sang Ý và từ Ý, Người bí mật trở về Pháp. Cuối tháng 6-1928, từ cảng Napôli (Napoli), Người đáp tàu của một hãng Nhật Bản để đi Xây Lan, và từ Xây Lan, Người đi Xingapo, rồi từ Xingapo, Người xuống tàu biển đi Xiêm (Thái Lan). Tuyến Xingapo – Băng Cốc chỉ có tàu khách loại nhỏ như tàu thủy Kola thường xuyên chạy tuyến này. Rất có thể Nguyễn Ái Quốc rời Xingapo sang Xiêm bằng tàu thủy Kola.
      Vào một ngày đầu tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc đến Băng Cốc, thủ đô nước Xiêm, rồi từ Băng Cốc, Người đi tới nhiều địa phương của Thái Lan.
      Vào một ngày đầu tháng 12-1929, tại một địa điểm của tỉnh Uđon Thani, Thái Lan, có một người Việt Nam làm liên lạc tìm đến gặp Nguyễn Ái Quốc. Người liên lạc đó nói với Nguyễn Ái Quốc, rằng, có hai nhà hoạt động cách mạng ở nước ngoài là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu cử tôi (người liên lạc) đến gặp Người để báo cáo về tình hình bất hòa giữa các tổ chức cách mạng – cộng sản ở trong nước, rằng, các đảng viên cộng sản ở trong nước muốn có một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người có đủ tư cách và uy tín để lập một đảng cộng sản thống nhất ở Việt Nam chỉ có thể là đồng chí Vương (Nguyễn Ái Quốc), một nhà hoạt động chính trị quốc tế nổi tiếng.
      Nghe người liên lạc báo cáo, Nguyễn Ái Quốc thấy lo lắng. Người quyết định sang Hương Cảng (Hồng Kông) để tổ chức một hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước lại, thành một đảng cộng sản ở Việt Nam. Và Người đã đến Hồng Kông.
      Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra tại một địa điểm ở đảo Cửu Long thuộc quần đảo Hương Cảng (Hồng Kông) từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930. Đây là Hội nghị hợp nhất giữa ba tổ chức cộng sản trong nước trước đó là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn.
      Đại biểu chính thức dự Hội nghị thành lập Đảng: Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Chủ trì; Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, thay mặt Đông Dương Cộng sản Đảng; Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu, thay mặt An Nam Cộng sản Đảng. Đại biểu không chính thức, hoạt động tại nước ngoài lúc bấy giờ cũng tham dự Hội nghị là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu.
      Đông Dương Cộng sản Liên đoàn mới thành lập (1-1-1930), lại nhận được giấy mời chậm, nên không kịp cử đại biểu đi dự. Tuy nhiên, sau khi Đảng được thành lập, ngày 24-2-1930, diễn ra Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Nam Kỳ, Bí thư Chấp ủy Lâm thời Nam Kỳ lúc bấy giờ là Ngô Gia Tự thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam, ký quyết định tán thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
      Gặp gỡ các đại biểu đến sự Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc bắt tay từng người với một cử chỉ rất thân mật; hỏi về công việc của từng người và về phong trào cách mạng ở trong nước. Các đại biểu lần lượt báo cáo với Người về tình hình cách mạng Việt Nam và công việc của từng người ở trong nước.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc năm 1930
Nguồn: Ấn bản 'Hồ Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta', xuất bản tháng 11/1970

      Hôm khai mạc Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc nói lý do về Hội nghị này. Sau đó, các đại biểu thảo luận ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về “việc hợp nhất tất cả các nhóm cộng sản thành một tổ chức chung, tổ chức này sẽ là một đảng cộng sản chân chính” (Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2005, tập 2, tr. 10). Các đại biểu đều tán thành ý kiến có tính chất đề xuất của Nguyễn Ái Quốc.
      Hội nghị nhất trí: “Đặt tên Đảng mới là Đảng Cộng sản Việt Nam” (Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2005, tập 2, tr. 11).
      Hội nghị thảo luận các văn kiện quan trọng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua:
      “Năm điểm lớn”.       
       “Chánh cương vắt tắt của Đảng”.
      “Sách lược vắn tắt của Đảng”.
      “Chương trình tóm tắt của Đảng”.
      “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam”..
      “Báo cáo tóm tắt Hội nghị”.
      “Lời kêu gọi”.
      Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng nêu rõ cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để đi tới xã hội cộng sản. Sau đó, trong quá trình hoạt động của Đảng, lý luận phát triển thành cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Tóm lại, cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Phải có sự kết hợp giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
     Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền; phổ thông giáo dục.
     Về phương diện chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập ra Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông.
     Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu tất cả các thứ quốc trái; thu hết sản nghiệp lớn của tư bản, đế quốc để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thu hết ruộng đất của đế quốc để chia cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
     Hệ thống tổ chức của Đảng gồm chi bộ (tổ chức cơ sở đảng); huyện bộ, thị bộ hay là khu bộ (đơn vị tương đương với một quận, huyện bây giờ); tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ; trung ương.
     Trách nhiệm của đảng viên là tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng; tham gia mọi sự tranh đấu của công nông, đòi quyền lợi về chính trị và kinh tế; phải thực hành cho được chính sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản; điều tra các việc; kiểm tra và huấn luyện đảng viên mới…
      Hội nghị thành lập Đảng đưa ra những giải pháp xử lý đối với các đảng phái. Đảng tổ chức cuộc họp với tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh Niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh,… để thành lập một mặt trận phản đế.
      Trong bài viết cho tạp chí “Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội” (số ra tháng 2-1960), nhan đề: “Ba mươi năm hoạt động của Đảng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét:
      “Việc thành lập Đảng ta là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
      Cũng trong bài viết trên, Người tổng kết:
      “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.
      Làm xong nhiệm vụ tổ chức Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc rời Hồng Kông vào ngày 13-2-1930, tiếp tục cuộc hành trình cách mạng cứu nước.
      Sự ra đời của Đảng là tất yếu lịch sử, do những điều kiện trong nước và điều kiện quốc tế lúc ấy quyết định; đồng thời là kết quả của một quá trình hoạt động đầy khó khăn, thử thách, quyết liệt của Nguyễn Ái Quốc, hiện thân của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Đó còn là kết quả của sự tìm tòi, nghiên cứu, xây dựng hệ thống lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc. Đó là lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; lý luận về xây dựng Đảng Cộng sản; lý luận về xây dựng Nhà nước Việt Nam cách mạng; lý luận về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất cả lý luận của Người đều được gắn chặt với thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
      Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là tiền đề dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, miền Bắc, miền Nam lần lượt được giải phóng, đất nước thống nhất, giang sơn quy về một mối, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
      Đó là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện và sự phấn đấu, chiến đấu hy sinh anh dũng của nhân dân ta trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp chúng ta.
---
Bài đăng báo Quân đội Nhân dân, số Tết Canh Tý 2020