Mới cập nhật

Ngày xuân bàn về thần giao cách cảm

GS,TS Đàm Đức Vượng


Theo “Toàn thư bách khoa mở Wikipedia” và một số tài liệu khác, thì “thần giao cách cảm” (tiếng Hy Lạp là “telepatheia”) có nghĩa là “cảm giác”, là việc truyền thông tin giữa các tâm thức bằng các phương thức khác với các giác quan tri giác; là khả năng đọc được các ý nghĩ của người khác, trao đổi thông tin trực tiếp giữa con người với con người. Theo “Từ điển Bách khoa thư Britannica”, thì “thần giao cách cảm là khả năng truyền những ý nghĩ không dùng những kênh giác quan thông thường”, là khả năng chính của sự cảm thụ bên ngoài các giác quan thông thường, hay còn gọi là ngoại cảm (ESP). Từ “telepathy” (“telepatheia”)1, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa đen là “trực cảm từ xa”, đã được sử dụng là thuật ngữ khoa học chính thức từ năm 1882. Vì vậy, thần giao cách cảm là khoa học chứ không phải là ảo giác. Đã có một số giả thuyết về thần giao cách cảm, như trường sinh học, năng lượng và thông tin khoa học. Có nhà vật lý học đã phân tích một hiện tượng thực tại có thể đồng thời ở nhiều vị trí cùng một thời gian, cho nên có thể hai bộ não cùng chia sẻ một ý nghĩ, và ý nghĩ ấy tác động vào nhau. Có nhà vật lý chứng minh thần giao cách cảm bằng điện tử sinh học, theo đó, mọi ý nghĩ đều có cơ sở vật chất là các hoạt động điện hóa tại các tế bào thần kinh trong não. Theo định luật cảm ứng điện từ, các xung điện hóa đó sẽ tạo ra sóng điện từ trong và chung quanh bộ não. Phép đo từ não đồ để nghiên cứu bộ não và chẩn đoán bệnh dựa trên thực tế đó. Đồng thời, qua một số hiện tượng cộng hưởng, các tín hiệu điện từ sinh học đó có thể tách khỏi nhiều và lan truyền qua dẫn sóng giữa tầng điện ly và mặt đất, tương tự như sóng phát thanh. Một nhà ngoại cảm có thể thu và giải mã các sóng này, điều đó đã dẫn tới khả năng “đọc ý nghĩ” của người khác. Tuy nhiên, những giả thuyết này chứng minh vẫn chưa có sức thuyết phục bằng những căn cứ khoa học. Vậy thần giao cách cảm là gì? Điều này chỉ có thể giải thích đây là khả năng đặc biệt của con người, là điều có thật, đã, đang và sẽ diễn ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.



Những nghiên cứu khoa học có hệ thống về hiện tượng ngoại cảm, tức thần giao cách cảm ở phương Tây bắt đầu từ năm 1882, khi nhà nghiên cứu tâm linh người Pháp, Fredric W.H.Meyers sáng lập Hiệp hội Nghiên cứu tâm linh (SPR), có trụ sở tại Luân Đôn, Anh, đánh dấu mốc khoa học nghiêm túc cho ngành ngoại cảm (thần giao cách cảm). Trong vô số những thí nghiệm “truyền ý nghĩ”, công trình sơ khai nổi tiếng nhất được tiến sĩ Henry Sidgwick và vợ của Ông là Eleanor Sidgwick tiến hành tại Brighton giữa các năm 1889 và 1891. Trong thí nghiệm này, những người cảm thụ bị “thôi miên”. Trường hợp thứ nhất, họ được yêu cầu tưởng tượng mỗi người, trên một tấm thẻ trắng, một hình ảnh hoặc một bức ảnh được chọn bởi “người phát ý nghĩ”, tùy theo mỗi người. Trường hợp thứ hai, “người phát ý nghĩ” chọn một trong những tập thẻ đánh số từ 10 đến 90, và người cảm thụ được phép đọc to những nhóm số mà “người phát ý nghĩ” đã chọn. Tất nhiên, “người phát ý nghĩ” và “người cảm thụ” chỉ giao tiếp bằng ngoại cảm (thần giao cách cảm). Kết quả đúng một cách ngạc nhiên trong hầu hết mọi trường hợp.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, người ta quan tâm nhiều hơn đến thần giao cách cảm. Lý do là có hàng triệu người bị mất người thân đã tin theo chủ nghĩa duy linh (spritualism)2, như tiến hành các cuộc gọi hồn để có thể giao tiếp được với những người thân đã mất.    

Thần giao cách cảm là một hiện tượng ngoại cảm. Người thực hiện thần giao cách cảm phải là người có giác quan thứ sáu (nhà ngoại cảm). Có thể giải thích thần giao cách cảm là một dạng của khoa học tâm linh; một dạng từ trường hiếm thấy, phát ra từ bộ não của nhà ngoại cảm. Vì vậy, thần giao cách cảm gắn liền với tâm linh. Linh hồn cũng gắn liền với tâm linh. Thần giao cách cảm cũng gắn liền với linh hồn, tạo thành tổng thể nghiên cứu về cái “vệ tinh” vô hình bay chung quanh con người, không hình, không bóng, nhưng lại có thật.

Vào năm 1926, Giám đốc Hiệp hội Nhân văn Leningrad, Giáo sư người Nga L.L.Vasiliev đã xuất bản cuốn sách có tựa đề: “Những hiện tượng thần bí về tâm linh con người”, đưa ra thuyết “thần giao cách cảm” liên quan đến từ trường phát ra chung quanh bộ não của các nhà ngoại cảm. Vasiliev lúc đó đã không thể xác định được sự dao động điện của những sinh vật sống vì thiếu công nghệ siêu nhạy để chứng minh. Tuy nhiên, ngày nay, sự tồn tại của những sóng từ trường này đã được khẳng định là có thật. Khi Liên Xô chưa sụp đổ, chính quyền Liên bang tỏ ra rất quan tâm đến thần giao cách cảm. Vào giữa những năm 60, thế kỷ XX, một phòng thí nghiệm bí mật của Viện sĩ Hàn lâm người Nga Josept Aideiman đã cố gắng chứng minh khoa học sự tồn tại của ngoại cảm. Bộ Quốc phòng Liên Xô lúc đó đã thành lập một nhóm chuyên gia gồm 12 nhà khoa học nổi tiếng của Liên Xô lúc ấy, gồm các nhà toán học, vật lý học, sinh học, hóa học, y học, tâm lý học để chuyên nghiên cứu về ngoại cảm. Nhóm này có tên là “Tế bào 241”. Mỹ cũng rất quan tâm đến lĩnh vực ngoại cảm. Họ cho đây là hiện tượng có thật, cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc. Một thí nghiệm về thần giao cách cảm đã từng được tiến hành trong chương trình của tàu Apollo 14, năm 1971. Trong thí nghiệm này, người ta đã từng chứng minh rằng, khoảng cách không gian là một rào cản đối với năng lực của thần giao cách cảm. Tuy nhiên, thí nghiệm không do NASA trực tiếp chủ trì. Thông tin về thí nghiệm cũng không được công bố. Ngày nay, hầu hết các quốc gia Âu - Mỹ đều thừa nhận ngoại cảm (thần giao cách cảm), qua những chứng cớ có cơ sở khoa học. Mỹ, Anh, Nga là những nước đi đầu thực hiện hàng loạt thí nghiệm ngoại cảm.

Trên thế giới đã xảy ra vô số câu chuyện về thần giao cách cảm. Trong một thí nghiệm, một người tên là Morley của Viện Victoria, Mỹ, cho các con kiến vào các bình chứa khác nhau, làm cho chúng không thể liên lạc được bằng các âm thanh, thị giác, mùi hay rung động (kiểu liên lạc thường gặp ở các con kiến). Nhưng rút cục, chúng vẫn có thể truyền tin cho nhau, qua “giác quan thứ chín”, theo lời Morley. Theo giới ngoại cảm học, thì một con khỉ trên đảo Koshima, Nhật Bản, học được cách rửa khoai tây bằng nước biển trước khi ăn. Ngay lập tức, kiến thức lan truyền tức thời qua “thần giao cách cảm” trong đàn khỉ, và từ đó, nhiều con khỉ trong đàn đã biết rửa khoai tây trước khi ăn. Có người lúc còn sống rất chăm sóc con chó, con mèo trong nhà. Đến khi người đó chết, con chó, con mèo trong nhà ủ rũ, không ăn, không uống trong nhiều ngày. Đây là hiện tượng có thật. Có một số động vật có khả năng cảm nhận được hiện tượng động đất, nhà sập và một số tai biến khác trước khi xảy ra vài giờ, như con vật đó chạy ra, chạy vào, tìm nơi ẩn nấp.

Đối với thực vật, hình như cũng có “thần giao cách cảm”. Trong bài viết “Cây cối thông minh” của tác giả Tuấn Sơn (theo Newsweek) đăng trên báo “Giáo dục & Thời đại”, số 87, ra ngày 11-4-2014, viết rằng, cây cối không chỉ “trò chuyện” cùng nhau, mà còn nhận thức được điều gì đang diễn ra chung quanh chúng. Các nhà khoa học vừa chứng minh được rằng, cây cối cũng biết suy nghĩ hợp lý. Tác giả Tuấn Sơn đưa ra những thí dụ: “Kẻ thù lớn nhất của cây hoàng liên gai (barbery) là ruồi giấm. Ruồi giấm lén đẻ trứng vào quả hoàng liên gai, sau đó ấu trùng ruồi giấm ăn hết hạt ngọt, khiến cho cây không còn khả năng sinh sản. Nhưng thật may là cây hoàng liên gai biết cách đối phó với ruồi giấm và nó biết đối phó một cách thông minh. Theo các nhà nghiên cứu ở Trung tâm nghiên cứu môi trường Helmholtz (UFZ) ở Leipzig và Trường Đại học Gottingen (Đức), bằng một cách bí ẩn, cây hoàng liên gai có thể cảm thấy ấu trùng ruồi giấm đang nằm trong những quả nào và biết kìm hãm sự phát triển của chúng, làm chúng nhanh chóng bị chết”. Điều này có vẻ khó tin? Tất nhiên là hơn chục năm trước, việc nghi ngờ cây hoàng liên gai hoặc một loại cây nào đó, có trí thông minh và khả năng suy nghĩ lôgích được coi là không nghiêm túc. Thế nhưng, ngày nay, các nhà khoa học biết rằng, cây cối cũng “thông minh”. “Cây cối không chỉ nhận biết và phân tích tình trạng môi trường chung quanh, mà còn biết phản ứng với môi trường theo cách có lý trí”. Đó là ý kiến nhận xét của Giáo sư Stanislaw Karpinski ở Trường Đại học Kinh tế nông thôn Ba Lan. Mới đây, các nhà khoa học ở Australia đã chứng minh rằng, cây cối có thể học và nhớ được những gì đã học trong nhiều tuần lễ. Đó là thí nghiệm với cây xấu hổ (mimosa) của Tiến sĩ Monica Gagliano ở Trường Đại học Western. Với thí nghiệm này, cây xấu hổ được đặt dưới một hệ thống kết cấu do Tiến sĩ Monica Gagliano chế tạo. Thỉnh thoảng một giọt nước lại rơi từ hệ thống xuống cây xấu hổ. Lúc đầu, cây cuộn lá lại theo phản xạ đối với mỗi giọt nước. Nhưng sau vài ba lần, nó không còn phản ứng như vậy nữa. Dường như cây xấu hổ đã hiểu rằng, những giọt nước không phải là mối nguy hiểm. Hơn nữa, hình như cây còn nhớ được điều đó sau hai tuần, khi nhà khoa học đặt nó sang một chỗ khác. Khi người ta chạm tay vào cây xấu hổ, thì tự nhiên lá của nó cụp xuống như rất “xấu hổ”. Đã có một số trường hợp, người trong nhà ngày nào cũng chăm sóc cây, đến khi người đó chết, tự nhiên cây đó cũng bị héo. Báo “Khoa học & Đời sống”, số 92 (2619), ngày 2-8-1911, đăng bài “Thần giao cách cảm giữa cây và người”, dẫn theo lời của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trường Tiến, Chủ tịch Hội Cơ học đất và Địa kỹ thuật của Việt Nam, cho biết, trước đây ở đền Quán Đôi, cạnh sông Tô Lịch, Hà Nội, trước cửa có hai cây rất to, nhưng không hiểu lý do gì mà cây tự nhiên chết. Những năm 60 của thế kỷ XX, những cây này không được quan tâm chăm sóc, cho nên vì thế mà có thể bị héo tàn. Sau này, nơi đây trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, thì cây tự nhiên sống lại. Cũng trong bài báo này, Tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho biết là cây đa thờ Thần Rùa trên Ba Vì có mối tương quan với hồ Hoàn Kiếm, hồ Tây bằng những linh khí. Cũng theo Tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, con người và cây cối đều có năng lượng sinh học giữa các mô sống và đều phải chịu ảnh hưởng của nguyên khí năng lượng của vũ trụ. Tại một cơ quan trung ương, có một cây đa xanh tốt. Một hôm, mấy người xây dựng đến dưới gốc cây đa, bàn tính nên chặt cây đa này đi để xây nhà. Nghe vậy, tự nhiên, cây đa héo lá và rụng lá. Thấy hiện tượng không bình thường, những người xây dựng không dám chặt cây đa đó nữa, mang hương đến cắm dưới gốc cây đa khấn vái thầm thì. Sau đó, cây đa tự nhiên sống lại, đâm chồi nảy lộc. Hiện nay, cây đa đó vẫn sống tươi tốt. Cây đa và cây bồ đề là hai cây của nhà Phật, thường mọc ở nơi đền chùa, miếu mạo, khi đã trồng và nhất khi cây đang xanh tốt, thì không nên chặt nó đi. Tại một cơ quan trung ương ở phố Phan Đình Phùng, Hà Nội, nguyên là nhà làm việc của một quan chức cấp cao. Ngôi nhà này có cây Vàng Anh (có tài liệu nói là cây Lộc Vừng), sống lâu năm, tươi tốt. Nhưng khi vị quan chức cấp cao này dọn đến đây làm việc, ông cho chặt cây đó đi. Sau khi cây bị chặt, không hiểu thực hư thế nào, vị quan chức cấp cao bắt đầu đau ốm và trong công vụ gặp nhiều trắc trở. Bệnh tình của vị này ngày một nặng và ông mất năm 66 tuổi. Ngày nay, tại nơi đây, người ta trồng lại cây này ở giữa sân. Nhiều người nói rằng, cây bồ đề linh thiêng, vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đắc đạo dưới gốc cây này. Một câu hỏi đặt ra, không hiểu giữa cây và người có liên quan gì với nhau không? Khoa học chưa chứng minh được sự liên quan đó. Nhưng hiện tượng rõ ràng là có. Những chuyện tương tự như trên, còn nhiều. Bên cạnh yếu tố về cây, còn có những yếu tố nào tác động vào không gian, thời gian, cũng cần phải nghiên cứu thêm. Rõ ràng, năng lượng sinh học chiếm phần quan trọng trong cơ thể con người và cây trồng. Cây cũng giống như con người; cây cần năng lượng của đất, của nước mới phát triển bình thường được. Khi con người chăm sóc cây, nếu năng lượng của người đó hợp tần số với cây đó, thì cây phát triển nhanh. Có người chăm sóc cây không lớn, mà mỗi ngày cây lại còi cọc đi, chứng tỏ “không hợp nhau” giữa cây và người. Mỗi người hợp với năng lượng của từng loại cây khác nhau. Có trường hợp, người trồng cây tươi tốt, nhưng lại không ra quả. Điều đó có nhiều nguyên nhân, nhưng nếu xét ở góc độ khoa học tâm linh, thì do tần số sống giữa cây với người không hợp nhau. Mỗi một môi trường sống đều có năng lượng khác nhau. Khi chúng ta sống ở môi trường lạ có thể bị ốm. Khi con người chăm sóc cây cũng vậy, cần có nguồn năng lượng nhất định để tương tác vào cây. Khi người đó không còn chăm sóc cho cây, cây không còn nguồn năng lượng thích hợp sẽ cảm thấy buồn rầu, dần dần có thể tự héo mà chết. Điều đó một phần có thể lý giải tại sao, những cây trong vườn đang xanh tươi, nhưng tự nhiên lá lại rũ xuống, chết dần đi khi gia chủ qua đời. Có người giải thích trường hợp cây bị héo hoặc ủ rũ là sau khi người chăm bón cây chết, thì không ai chăm bón cho cây, tưới nước cho cây, làm cho cây bị héo, “ốm” và chết dần. Giống như người mẹ có thể linh cảm được những điều không hay đang xảy ra với con mình, dù hai mẹ con đang ở cách xa nhau. Như thế gọi là thần giao cách cảm.



Trong sách “Hành trình về phương Đông” của Giáo sư Blair T.Spalding, dẫn lời đạo sĩ S.Babu, cho rằng, tạo hóa rất chu đáo, hiện diện trong khả năng sinh tồn của mọi sinh vật. Sự sống không có trọng lượng hay chiều cao mà mạnh mẽ làm sao. Xin hãy nhìn một rễ cây non nớt, mềm yếu, vậy mà nó có thể làm nứt một tảng đá cứng rắn. Ở phố Thụy Khuê, Hà Nội, có ngôi đền, cây mọc xuyên bức tường, làm nứt đôi bức tường, buộc người ta phải cưa nó đi và xây lại bức tường. Sự sống phụ thuộc vào không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan rã, rồi lại kết hợp thành các hình thế mới. Sự sống từ các loài cây cỏ nhận lấy thán khí (CO2) biến thành dưỡng khí (O2) nuôi muôn loài.

Có một góa phụ kể lại câu chuyện của chính gia đình mình, rằng, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chồng bà được gọi nhập ngũ đi chiến đấu ở nước ngoài vào tháng 12-1941. Vào một đêm tháng 4-1942, tự nhiên, bà trằn trọc mãi không sao ngủ được. Rồi bà nghe thấy tiếng gõ cửa, cả tiếng chìa khóa mở cửa. Một thoáng sau, chồng bà đứng cạnh bà, nhìn bà, hôn má bà, nắm tay bà rồi biến mất. Ba năm sau, năm 1945, bà mới nhận được giấy báo tử. Chồng bà chết trong một trại tù binh chiến tranh ở Viễn Đông vào tháng 4-1942.

Có một chuyện xảy ra vào năm 1962, một cặp chị em nhà Eller cùng được đưa vào bệnh viện tâm thần tại Bắc Carolina, Mỹ, bác sĩ chẩn đoán họ bị tâm thần phân liệt. Để tiện cho việc điều trị, các bác sĩ tách hai chị em ở riêng phòng, tuy hai người đã phản đối dữ dội. Ngay đêm đầu tiên bị tách ra ở hai phòng riêng, cả hai người đã chết trong cùng một thời gian và trong cùng một tư thế nằm co quắp. Các bác sĩ cố gắng tìm ra nguyên nhân cái chết của hai chị em nhà Eller, nhưng đến nay, vẫn là điều bí ẩn đối với giới y học.

Câu chuyện về một cặp chị em sinh đôi ở nước Nga: Tháng 8-2000, xảy ra một vụ nổ bom tại quảng trường Puskin, Moscow, Nga, làm nhiều người bị thương, trong đó có một cô gái với những vết bỏng trên người. Cô được đưa đi điều trị tại bệnh viện Sklifosovski. Người chị sinh đôi (ra trước) đến thăm em nằm điều trị. Các nhân viên y tế vô cùng sửng sốt khi nhận thấy trên cơ thể khỏe mạnh của cô cũng có những vết bỏng. Như vậy, người chị đã nhận một phần đau đớn từ em, còn các nhà khoa học lại cho rằng, đây là hiện tượng thần giao cách cảm. Sự kiện này chắc không có thật, vì rất khó xảy ra.

Vào năm 2009, có một cặp song sinh có tên là Gentma và Leanne. Một hôm, Gentma đang đi làm, bỗng nhiên có cảm giác lo lắng, bồn chồn. Thấy vậy, cô liền chạy về nhà, và ngay lập tức, cô thấy em mình nằm bất tỉnh, chìm xuống bồn tắm đầy nước. Ngay lập tức, Gentma kéo Leanne ra khỏi bồn tắm và thực hiện các phương pháp cấp cứu. Leanne được cứu sống. Câu chuyện ngay lập tức được lan truyền khắp châu Âu. Người ta tin rằng, Leanne đã truyền ý nghĩ xin cầu cứu tới người chị của mình.

Chuyên gia Radin kể lại câu chuyện của một người ngã xuống đất từ lưng ngựa. Người chị của người này lúc đó đang ở cách chỗ người em mình nhiều cây số. Linh tính có chuyện chẳng lành, người chị liền nói với cha gửi ngay điện tín đến hỏi xem sao? Quả nhiên, đúng là có hiện tượng này. Qua sự kiện này, người ta có thể giải thích bằng sự tương quan từ trường của những người thân không ở gần nhau. Đây cũng là một hiện tượng tâm lý.

Trong sách “Những chuyện về thế giới tâm linh” của tác giả Trần Ngọc Lân, có câu chuyện về thần giao cách cảm, như chuyện về tai nạn thảm khốc đã xảy ra trên xa lộ A6, qua Macon về hướng Lyon, Pháp. Những tin tức đầu tiên cho biết, nhiều người bị thương nặng. Một người phụ nữ tên là Nelly Dufour, 36 tuổi, hết sức bàng hoàng khi nghe đài đưa tin trên. Cô hiểu rằng, trước đó hai giờ, cô đã vất vả gọi điện thoại nhờ ban tổ chức khu triển lãm thông báo cho chồng phải ngừng ngay chuyến đi, vì cảm thấy bất an. Nhận được tin nhắn đó, chồng cô đã nghe lời, không đi nữa, thế là thoát chết, vì có sự linh cảm của vợ.

Chuyện kể rằng, nhà bác học Nga nổi tiếng Lômônôxốp, trên đường từ Đức trở về Saint Peteburd, mơ thấy con tàu của người cha bị bão đánh dạt lên một hòn đảo thuộc Bắc Băng Dương. Sự kiện đã diễn ra đúng như trong giấc mơ, mà trong thần giao cách cảm, người ta gọi là “báo mộng”.

Một ngày tháng 1-1943, bà Nathan Twining đang ở nhà riêng tại Bắc California, Mỹ, bỗng thấy chồng bà, Tư lệnh Bộ Tham mưu quân đội Hoa Kỳ, đứng ngay ở đầu giường ngủ của bà, trong khi ông đang chỉ huy một hạm đội ở Thái Bình Dương. Ba ngày sau, bà nhận được tin chồng bà bị mất tích. Ông Nathan Twining cũng đã chết vì máy bay rơi xuống biển.

Còn vô số những chuyện có thật về thần giao cách cảm đã xảy ra mà không thể kể hết ra đây và cũng rất khó chứng minh bằng khoa học.

Giải thích về hiện tượng này, có nhiều giả thuyết, nhưng giả thuyết về điện từ trường đã được nhiều người nhắc đến và nhất trí, nó tùy theo khả năng mà tác động lên người này mà lại không tác động lên người khác. Theo tôi (ĐĐV), ta có thể dựa vào khoa học trừu tượng mà giải thích nó. Sự trừu tượng khoa học là khoa học có thể cảm thấy bằng giác quan, cảm ứng. Sự trừu tượng khoa học sẽ cho chúng ta những quan niệm rộng hơn, sâu hơn về những cảm giác trực tiếp và gián tiếp của con người khi nhận được tín hiệu điện từ phát ra từ một người khác có cùng một dòng điện (trong người) với mình. Trong thực tế, một biểu tượng không sao nhận rõ được một sự chuyển động 300 nghìn km một giây, nhưng tư tưởng thể hiện bằng cảm giác lại có thể nhận rõ được. Đó có thể là quy luật, mối liên hệ vô hình, nhưng biện chứng nội tại của các hiện tượng. Chỉ có sự khái quát về lý số và phân tích bằng những trừu tượng khoa học mới làm cho người ta tìm ra thực chất của những hiện tượng và những quy luật phát triển của hành vi số mệnh, số phận của con người. Ý nghĩa to lớn của trừu tượng khoa học là để biết thực chất của những hiện tượng, sự kiện sẽ xảy ra. Nếu không áp dụng trừu tượng khoa học để phân tích lý số thì không thể biết một cách tương đối chính xác những hiện tượng có thể sẽ xảy ra trong cuộc đời còn lại của mình.

Tại Việt Nam, vấn đề thần giao cách cảm vẫn đang còn có những nhận thức khác nhau. Người tin, người không tin, có người nửa tin, nửa ngờ. Tôi còn nhớ, vào khoảng năm 1982, lúc ấy, tôi đang công tác tại Viện Mác - Lênin (sau đổi tên là Viện Mác - Lênin - Hồ Chí Minh), có đề xuất với Viện trưởng Viện Mác - Lênin lúc ấy là Giáo sư Nguyễn Vịnh, về việc mời nhà ngoại cảm, Giáo sư Hoàng Phương đến nói chuyện tại Cơ quan Viện Mác - Lênin về thần giao cách cảm. Giáo sư Nguyễn Vịnh đắn đo một lúc rồi bảo “không tiện”. Thế là cuộc nói chuyện không thành.

Trong một bài nghiên cứu dài: “Tâm linh đàng sau những vụ án”4 của Tiến sĩ Vũ Thế Khanh kể về nhiều chuyện thương tâm đàng sau các vụ án. Bài viết phân tích hàng loạt án giết người tàn bạo, mà kết quả là kẻ gây án phải nhận bản án chung thân, tử hình. Không đáng sợ sao được khi ngoài việc cướp của giết người, hận thù về tình yêu, bế tắc bị đe dọa nợ nần,... còn có hiện tượng án mạng giết người như “băm thịt” có khi chỉ một cơn bực dọc, va quệt xe khi lưu thông trên đường,... mà nhiều kẻ đã cướp đi mạng sống của người khác, rồi phi tang bằng cách chặt cơ thể nạn nhân thành nhiều mảnh, ném rải rác ở các vị trí khác nhau nhằm che giấu tội ác. Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước đã tuyên phạt bị can Nguyễn Văn Sơn, 23 tuổi, mức án tử hình về tội giết người chỉ vì lý do đơn giản là nạn nhân khi đến trước mặt Sơn mà “hai tay bỏ trong túi quần”. Hình thức giết cũng hết sức dã man. Có kẻ giết nạn nhân ngay lập tức để thỏa mãn hung hãn. Có kẻ giết từ từ để nạn nhân mất máu dần mà chết đi trong hoảng loạn kéo dài. Có kẻ dùng thuốc độc khiến nạn nhân chết mà không biết mình đang bị giết...

Theo Tiến sĩ Vũ Thế Khanh, nguyên nhân dẫn đến những tội ác man rợ là do sự giáo dục của xã hội và gia đình chưa tốt; trẻ em sớm tiếp cận những bộ phim, trò chơi game bạo lực đã khiến các em bị tiêm nhiễm và cho rằng, hành vi giết người, đánh người là “chuyện bình thường”; sử dụng chất kích thích, thuốc gây ảo giác, ma túy; giết người để cướp của; chạm nọc tự ái, cũng giết nhau, thậm chí giết cả người thân để lấy tiền mua ma túy,...

Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Vũ Thế Khanh, một nguyên nhân nữa là gia đình hành nghề giết mổ, sát sinh (một đời hay nhiều đời) cũng sẽ dẫn đến tình trạng sát hại lẫn nhau một cách dễ dàng, bởi hằng ngày chứng kiến cảnh giết mổ, máu me, coi cảm giác đau đớn tột độ của các con vật bị bức hại là bình thường, không còn cảm giác sợ sệt khi ra tay hạ thủ một ai đó. Rồi sự ảnh hưởng của tà ma do nhân quả, nghiệp chướng từ quá khứ thúc giục cũng sẽ dẫn đến những hành động giết người. Vì vậy, đạo Phật khuyên con người ta không nên sát sinh cũng là vấn đề cần phải nghiên cứu. Còn rất nhiều nguyên nhân khác dẫn đến hành động giết người. Một khi thú tính nổi lên thì nhân tính không còn. Khi ấy, dù đứng trước mặt mình là đồng loại, kể cả người thân yêu của mình, vẫn cam tâm giết chết bằng nhiều thủ đoạn khác nhau.

Có một sự thật hãi hùng mà ít người ngờ đến là khi nạn nhân trút hơi thở cuối cùng, thì mọi oan gia, nghiệp chướng lại bắt đầu diễn ra trong gia đình của những đương sự có liên quan. Và đôi khi bản án nhận được do sự phán quyết của thế giới tâm linh mà hung thủ nhận được còn khủng khiếp hơn cả án từ khi tòa tuyên trước vành móng ngựa.

Người chết sẽ báo thù? Điều này trước hết phải xét về mặt tâm lý, hung thủ sẽ bị dằn vặt, khiếp sợ do ám ảnh tội lỗi gây ra. Nhưng nặng nề hơn cả nếu tội giết người được soi sáng dưới ánh sáng tâm linh. Người bị bức hại, bị tước đi sinh mạng trong lúc họ còn ôm ấp biết bao hoài bão về sự nghiệp, tình cảm gia đình,... sẽ tìm cách trả thù kẻ đã chấm dứt mọi tương lai, hạnh phúc của mình. Ở đây, không gì hợp lý hơn khi ta lý giải bằng “luật” nhân quả.

Cũng theo Tiến sĩ Vũ Thế Khanh, do áp dụng hình thức “áp vong”, tức là người đã khuất nhập hồn vào người thân trong gia đình để “giao lưu, bày tỏ”, hoặc thông qua nhà ngoại cảm để nhờ “phiên dịch”, chuyển tải “thông điệp” của mình cho người thân biết kẻ đã giết mình, và cũng không ít trường hợp nạn nhân đã chết, hồn nhập thẳng vào hung thủ đã gây ra cái chết cho nạn nhân để thủ phạm tự nói ra, tự khai toàn bộ quá trình thực hiện tội ác của hắn. Thực tế cho thấy, gần 20 năm qua, những người làm công tác khảo nghiệm về khả năng đặc biệt của UIA đều đã chứng kiến hàng nghìn trường hợp người chết về để gặp người thân trong gia đình với những thông tin cụ thể, với những nhân chứng cụ thể hiện vẫn còn sống. Nói vậy để thấy rằng, tuy nạn nhân đã không còn sống nữa, nhưng mọi việc không vì thế mà dừng lại. Mọi hậu quả do tội lỗi, tội ác hại người, giết người, thì cũng không vì thế mà kết thúc.

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Viện Khoa học hình sự Bộ Công an đã nhiều lần tìm ra thủ phạm các vụ án bằng phương pháp tâm linh với những bằng chứng, tang chứng, nhân chứng rõ ràng. Trong quá trình sử dụng năng lực ngoại cảm để xác định tội phạm, nhiều nạn nhân tuy đã chết, nhưng vẫn có thể diễn tả lại cảm giác đau đớn khi bị giết. Những nạn nhân ấy đều có cảm giác căm hận và khăng khăng ý định báo thù.

Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và phòng ngừa tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân đã nghiên cứu về tội phạm giết người trong giai đoạn từ tháng 1-2009 đến tháng 9-2010 với trên 4 nghìn phạm nhân đang thụ án tại 4 trại giam thuộc Bộ Công an quản lý đã đưa ra một thực trạng làm rung động xã hội: 14% đối tượng có độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, chiếm gần 1/5 các độ tuổi còn lại. Nguyên nhân là ở lứa tuổi dưới 18 có thể nói là giai đoạn đang hình thành nhân cách, cho nên trong bản thân sẽ có những xáo trộn tâm lý, dễ bị kích động, có xu hướng học đòi theo bạn bè trong khi bản thân lại chưa được trang bị các kỹ năng sống như giải quyết mâu thuẫn, tự quản cảm xúc của chính mình; đồng thời, lứa tuổi này chưa có cơ hội tiếp cận để hiểu các quy chế, văn bản quy phạm pháp luật về tội giết người. Có nhiều người vì lửa hận thù mà sinh giết người. Chỉ có từ bỏ hận thù thì mới không giết người. Trong mỗi con người đều có tính thiện và tính ác, không nên để cho tính ác lấn át tính thiện, vì nếu để cho tính ác lấn át tính thiện thì sẽ sinh ra tàn ác, giết người. Người xưa có câu: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi”, nghĩa là nếu một ngày không nghĩ đến điều thiện thì cái ác sẽ tự mọc lên.

Tôi (ĐĐV) còn nhớ khi đi sưu tầm tài liệu để viết về nhân vật Nguyễn Đức Cảnh, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, người con của giai cấp công nhân Việt Nam, người sáng lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ (năm 1929), một tổ chức tiền thân của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đã sưu tầm được một tài liệu viết về đao phủ Long, người đã chém đầu hai chiến sĩ cộng sản là Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân tại Nhà lao Hải Phòng vào sáng ngày 31-7-1932, theo lệnh của nhà cầm quyền Đông Pháp. Một phát súng hiệu nổ. Đao phủ Long giật dây dao chém. Đầu Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân rơi xuống. Đao phủ Long xách tai hai người mang đi. Vì vậy, những người cộng sản trong tù hồi ấy thường gọi là “Long xách tai”, vì cứ mỗi khi chém ai xong thì Long lại xách tai cái đầu lâu giơ lên để bọn mật thám và quan tòa kiểm tra và chụp ảnh, báo cáo lên cấp trên của họ.

Mỗi lần chém người là Long được quan thầy thưởng cho 5 đồng tiền Đông Dương lúc ấy. Chém xong hai người, đao phủ Long bần thần cả người, suốt ngày uống rượu, nói lảm nhảm, như phát điên và chẳng bao lâu, ông ta ốm chết một cách thảm hại. Đây rõ ràng là có báo ân, báo oán, là nhân quả đối với việc hành quyết những nhà cách mạng chân chính, không có tội gì mà bị hại.

Trên đây là một số vấn đề về thần giao cách cảm (ngoại cảm). Về vấn đề này, có cái khoa học đã chứng minh và làm sáng tỏ, nhưng cũng có cái khoa học chưa chứng minh và chưa làm sáng tỏ được. Viết ra đây để bạn đọc tham khảo.

(Theo sách “Khoa học về lý số” (Dự đoàn khoa học về con người và cuộc đời) của GS,TS Đàm Đức Vượng, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2015).

------

1 Theo tôi (ĐĐV), thuật ngữ “telepathy” và thuật ngữ “telepatheia” là chung một nghĩa, có điều là “telepathy” là danh từ riêng, có nghĩa là “hiện tượng ngoại cảm” (hiện tượng thần giao cách cảm), còn “telepatheia” là danh từ chung, có nghĩa là “các hiện tượng ngoại cảm” (các hiện tượng thần giao cách cảm).

2. Chủ nghĩa duy linh là học thuyết, quy là duy tâm, vì cho rằng tinh thần thống trị tự nhiên; rằng, linh hồn, tinh thần là thực thể duy nhất, còn thân thể chỉ là sản phẩm của linh hồn. Những người theo chủ nghĩa duy linh phủ nhận vật chất tồn tại khách quan, độc lập đối với ý thức; họ bác bỏ nhận thức vật chất và thay thế bằng sự tín ngưỡng tinh thần (ĐĐV).

3. Dẫn theo http://afamily.vn.

4. Website: nhantainhanluc.com

Tiến sĩ Vũ Thế Khanh là Tổng Giám đốc Hội Liên hiệp khoa học UIA, một trong những người đã nghiên cứu về thế giới tâm linh suốt 20 năm qua, dưới góc nhìn của một nhà khoa học về tâm linh.