Mới cập nhật

Khoa học, Lý trí và Nhân tình thế thái


 
Tự nhiên được chi phối bởi các qui luật phổ biến mà trí tuệ loài ngưới có thể lĩnh hội được. Niềm tin vào tính hợp lý của Thế giới, đã vượt cả ra ngoài lĩnh vực Vật lý và xâm nhập vào mọi địa hạt hoạt động của con người trong suốt nhiều Thế kỷ, bởi tin rằng, đó chính là hiện thực, là vĩnh cửu.

Isaac Newton, thần tượng của niềm tin ấy, là người đã chứng tỏ Vũ trụ vận hành trơn tru, bằng một thứ “động cơ vĩnh cửu” : vạn vật hấp dẫn, do chính mình tìm ra, cũng chính là người đầu tiên cảm nhận sự cáo chung của cái hiện thực vĩnh cửu ấy đang đến, khi ông không thể nào giải thích được tính đỏng đảnh của Mặt trăng, trong quá trình quay quanh Trái đất.
Trước đó, Kepler cũng đã lao vào tính toán chuyển động của Mặt trăng, với giả thuyết là nó vạch ra một quĩ đạo ellipse quanh Trái đất. Nhưng, những kết quả tính toán vị trí Mặt trăng vẫn sai khác so với quan sát trên bầu trời.

Không chút nghi ngờ định luật vạn vật hấp dẫn của mình, Newton đã đưa thêm vào bài toán chuyển động của Mặt trăng một yếu tố mới : Nhiễu loạn do sức hút của Mặt trời, với hy vọng rằng, những bất thường phức tạp, diễn ra theo chu kỳ của Mặt trăng là có thể giải thích được bởi nghiệm chính xác của “Bài toán ba vật”.

1. Câu chuyện Tư duy hệ thống

Con đại bàng và con ếch
Những tưởng, từ bài toán hai vật, đã được giải một cách trọn vẹn trong tác phẩm bậc thầy của mình : “Những nguyên lý toán học của Triết học Tự nhiên”, xuất bản vào năm 1687, sang ba vật tương tác nhau bằng hấp dẫn, thì chẳng khó khăn gì lớn. Hóa ra ông đã nhầm. Newton buồn bã kể lại rằng, “Chưa bao giờ ông phải đau đầu nhiều như khi nghiên cứu bài toán Mặt trăng”.
Mặc dù sau cả năm trời tính toán căng thẳng, các vị trí của Mặt trăng mà ông đã tính toán dựa vào lý thuyết của mình, vẫn tiếp tục sai khác với vị trí quan sát được trên bầu trời.
Newton đã coi công trình nghiên cứu của ông về Mặt trăng là một thất bại. Sau những nổ lực tinh thần căng thẳng mà không được đền bù, ông đã từ bỏ Khoa học. Có thể là ông cảm thấy mình không còn năng lực sáng tạo của thời trai trẻ, ở tuổi 23, đã từng làm thay đổi bộ mặt của Vũ trụ.
Ông đã rời bỏ chức Giáo sư Trường Đại học Cambridge năm 1696, và làm một nhân viên hành chính tại Kho bạc Hoàng gia, cho đến hết quãng đời còn lại.

Thất bại của Newton không làm nản lòng những người nối nghiệp ông. Thậm chí, họ còn dũng mãnh hơn. Trong số đó, có nhiều nhà Toán học danh tiêng như : Leonhard Euler (Thụy sĩ), Lagrange (Pháp), và Laplace (Pháp). Trong quá trình nghiên cứu bài toán Mặt trăng, họ khám phá ra nhiều điều mới mẻ về Toán học. Thế nhưng Mặt trăng thì vẫn ngang ngạnh, không chịu tuân theo những tính toán của họ. Euler đã dành cả cuộc đời cho bài toán Mặt trăng, nhưng rồi cũng thú nhận thất bại.
Đặc biệt, từ tính “đỏng đảnh” của quĩ đạo Mặt trăng, làm dấy lên một nỗi lo về tính ổn định của hệ Mặt trời: Nếu các hành tinh ngoan ngoãn đi theo quĩ đạo của chúng quanh Mặt trời mãi mãi, lặp đi lặp lại cùng một quĩ đạo của mình, thì hệ Mặt trời là ổn định, bền vững. Còn trường hợp thứ hai, vì có sự tích tụ các nhiễu loạn của lực hấp dẫn, do các hành tinh tác dụng lẫn nhau gây ra, thì quĩ đạo của các hành tinh, trong tương lai, sẽ thay đổi một cách căn bản, làm cho sự sắp xếp của hệ Mặt trời khác đi : Hệ Mặt trời sẽ là không ổn định và không bền vững.

Giải quyết bài toán ba vật, các nhà Toán học trứ danh đã không đi được đến đích, thì với hệ Mặt trời có đến mười vật, phải chăng là điều vĩnh viễn bất khả thi ?

Trên thực tế, tất cả những tính toán được thực hiện trong thế kỷ XIX, dựa vào các định luật Newton và một kho công cụ Toán học khổng lồ, cũng không đem lại lời giải chính xác hơn so với kết quả đã thu được từ 2000 năm trước. Vậy, để thoát khỏi bế tắc này, cần phải có một cách tiếp cận hoàn toàn mới. Nói cách khác, phải có một kiểu mẫu Tư duy khác một cách căn bản.

Người tìm ra “kiểu mẫu” mới này là nhà Toán học trẻ tuổi, người Pháp, Henri Poincaré. Ông đã đưa ra một phương pháp hết sức độc đáo để giải các bài toán của Cơ học thiên thể. Và trong khi làm việc với phương pháp đó, ông đã tình cờ đụng phải hiện tượng Hỗn độn. Poincaré chứng minh rằng, các phương trình Newton đã chứa đựng trong nó mầm mống của hỗn độn, mà chính Newton và các tiền bối không ngờ đến, chỉ vì do mải mê đi tìm cái trật tự, cái hài hòa của một Vũ trụ tất định mà thôi.
Các định luật Newton được viết dưới dạng các phương trình vi phân, mà nghiệm của chúng là tổng của một chuỗi vô hạn các biểu thức, nhìn đã đủ chết khiếp. vì chẳng có ai đủ tuổi thọ để tính và lấy tổng đủ các số hạn của chuỗi đó. Nhưng, đối với hệ Mặt trời, vấn đề là chuỗi đó có hội tụ không, tức là nó có một gia trị xác định hay không ? Nếu hội tụ thì hệ Mặt trời là bền vững, các hành tinh sẽ tiếp tục không mệt mỏi đi theo quĩ đạo của chúng quanh Mặt trời. Hay chuỗi đó là phân kỳ. Nếu vậy thì quĩ đạo các hành tinh sẽ thay đổi không gì có thể cứu vãn được.

Ngược lại với các vị tiền bối, Henri Poincaré muốn nắm bắt thực tại trong Tổng thể của nó. Nhưng phương pháp phương trình vi phân truyền thống thì lại cô lập riêng những mảnh của thực tại, rồi sau đó mới lắp ghép các mảnh đó để dựng lại tổng thể của nó. Ông viết : “Thay vì phải xem xét quá trình tiến hóa của một hiện tượng trong sự toàn vẹn của nó, người ta lại chỉ tìm cách ghép nối một thời điểm với một thời điểm khác ở lân cận trước đó, và cho rằng, trạng thái hiện tại của Thế giới chỉ phụ thuộc vào quá khứ vừa mới qua chứ không chịu ảnh hưởng gì bởi ký ức về quá khứ xa xăm “.
Việc để mất ký ức về quá khứ xa xăm này, tất yếu dẫn đến sự tri giác về thực tại như một continum, mà trong đó không có vô trật tự và hỗn độn.

Với tầm nhìn toàn cảnh như vậy, thì bài toán ba vật, ông muốn thấy được đồng thời toàn bộ cảnh tượng của các quĩ đạo, với tất cả sự tổ hợp khả dĩ của các điều kiện ban đầu. Vì mục đích đó, ông đã phát minh ra một công cụ toán học, gọi là Không gian pha (gồm 3 chiều không gian và 3 chiều vận tốc), mà cho đến nay vẫn còn dùng làm nền tảng cho việc nghiên cứu Hỗn độn. Bằng trí tưởng tượng mạnh mẽ, ông đã gắn mình vào trong không gian trừu tượng nhiều chiều đó để bay vào không gian Vật lý, “lôi ra” lời giải xác định của bài toán ba vật nóng bỏng lúc bấygiờ. Quan trọng hơn nữa là ông đã phát hiện ra một “nhân vật” hoàn toàn bất ngờ, từ lâu giấu mặt trong bóng tối, nhân vật được đánh giá là làm nên thực tại của Thế giới : Đó là Hỗn độn.

Để có cái nhìn tổng thể đối với bài toán ba vật, cần thiết phải có một không gian 18 chiều : 6 chiều mô tả Mặt trăng, 6 chiều mô tả Trái đất, 6 chiều mô tả Mặt trời. Chính nhờ có nhiều chiều như vậy, mà Poincaré không phải con ếch nữa mà là đại bàng. Ông bay lồng lộng trên cao để nắm bắt cái sôi động của thực tại, chứ không phải tìm kiếm cái trật tự tĩnh lặng ở đáy sâu.

Như vậy, hệ ba vật thể trong không gian pha 18 chiều, được biểu diễn bởi một điểm duy nhất. Tương tự, hệ Mặt trời cũng vậy, chỉ cần một điểm duy nhất để biểu diễn nó trong không gian pha nhiều chiều này. Tóm lại, cho dù hệ thống được nghiên cứu, có phức tạp đến đâu, các phần tử có nhiều đến mấy đi nữa, thì chỉ cần một điểm trong không gian trừu tượng đó thôi, là đủ đẻ biểu diễn tổng thể của một hệ thống.

Với cách nhìn đó, Poincaré đã khám phá ra rằng, một hệ ba vật, bề ngoài đơn giản như hệ gồm Mặt trăng, Trái đất, Mặt trời, bị chi phối bởi cùng một định luật vạn vật hấp dẫn, nhưng cũng vẫn có thể sản sinh ra cái không thể tiên đoán và cái không thể xác định. Vậy thì, Hỗn độn cũng đang quẩn quanh đâu đó trong Hệ Mặt trời của chúng ta.

Poincaré, bằng một kiểu mẫu Tư duy hoàn toàn mới, thuật ngữ hiện đại gọi là Tư duy hệ thống, và bằng thiên tài Toán học của mình, đã khám phá ra bản chất hai mặt của các định luật Cơ học của Newton. Nếu như bộ mặt đã được khám phá của các định luật này là Trật tự thì bộ mặt ẩn giấu của chúng là Hỗn độn. Trật tự và hỗn độn hòa quyện mật thiết với nhau: Cái không thể tiên đoán không bao giờ ở cách quá xa cái có thể tiên đoán.

2. Ngẫm trong Thế thái nhân tình

Vài thập niên gần đây, trong sinh hoạt học thuật, ta thường nghe, ngày càng nhiều, khái niệm Tư duy hệ thống hay Tư duy đa phức, với hàm ý cảnh báo rằng, thao tác ghép nối “tư duy bộ phận” để dựng nên chân dung toàn diện cho một đối tượng nào đó, đã không còn thích hợp cho sự phát triển nhận thức Thế giới ngày nay nữa. bởi vì Khoa học hiện đại chứng tỏ rằng, Cái Toàn thể không phải là kết quả của phép cộng đơn giản từ những Bộ phận.

Ấy thế mà câu chuyện Tư duy của hai nhà bác học Newton và Poincaré trên đây, lại xảy ra từ mãi hồi thế kỷ XVII xa xưa. Nó cho thấy bằng chứng còn mạnh mẽ hơn lời cảnh báo vài chục năm nay, rằng Cơ học Newton không thể khuất phục được Mặt trăng, trong bài toán ba vật, nếu không có Tư duy hệ thống của Poincaré.

Cũng vậy, không biết tự bao giờ, nghe trong Thế thái nhân tình nhiều câu triết lý,đại loại như : chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng, biết một mà chẳng biết hai hoặc những câu cửa miệng như: Mắt nhìn không qua sống mũi, lẫn lộn như : Trông gà hóa cuốc v.. v.. đều có ý chê trách cái trực cảm chủ quan, thiếu tầm bao quát, mà dẫn đến oan sai, mất cả lý lẫn tình.
Những ẩn dụ bình dân trong đời thường ấy, hóa ra có cơ sở Khoa học tự nhiên vững chắc đến thế. Mà cả Khoa học xã hội nữa, người ta gọi đó là Phương pháp tư tưởng, một phương pháp cũng chắt lọc từ qui luật Đất – Trời, từ Nhân sinh mà ra. Nó là công cụ định hướng tư duy và hành vi đời người.

Vậy mà trực giác và cảm tính vẫn cứ ngọt ngào chen vào cầm lái Tư duy, che mờ bản lĩnh, mà rất ít khi con người ta nhận biết.

Khoa học nói rằng, Hỗn độn làm nên thực tại, sáng tạo ra cái phong phú của tổng thể. Tạo hóa ban cho ta Tư duy và lý trí, đó là bộ lọc để ta gọi đúng tên, lọc ra bản chất Khoa học của cái gì là Hỗn độn tất yếu, tồn tại trong hệ thống. Nó cũng giống như sự hiện diện và hoạt đông náo nhiệt của loại nấm, vi khuẩn ký sinh trong cơ thể vậy, đó là sư hiện diện tất yếu, giúp cho cái sống vận hành thêm trơn tru mà thôi, đâu phải vì thấy có một nhóm vi khuẩn trong người, mà cho đó là dấu hiệu sự xuống cấp của toàn thân.

Từ ngày ta mở cửa, hội nhập kinh tế, không ít người như “bừng tỉnh” trước những mới mẻ trước mắt, chợt hiểu rằng, xưa nay Người Việt ta xấu xíquá. Danh mục các bệnh xấu xí được kê ra bằng một thứ nghệ thuật “hình tượng”, khá ấn tượng. Nhưng cũng không ít người tự hỏi, dân tộc này, khi hội đủ những cái xấu ấy, thì làm sao viết được những trang lịch sử bốn ngàn năm hào hùng, để chúng ta viết tiếp từ ngày hôm nay, mà không hề tàn lụi, như tác giả lập danh mục kia, đã dự báo?

Chùm khế ngọt, cái ao làng, lũy tre xanh, nó cổ xưa thật. Cái ao làng nó đâu hiện đại bằng cái bể bơi gạch men nước biếc, lũy tre xanh kẽo kẹt buổi trưa hè, đâu có hiện đại hơn dãy tường bao, có ụ đèn tròn và cánh cổng sắt, chùm khế ngọt giá trị sao bằng chùm đèn pha lê ngoại nhập, đu đưa trên trần đại sảnh? Thế mà những cái được kể là xấu xí lạc hậu ấy đã làm nên ký ức, lời ru, nuôi ta khôn lớn từng ngày, hun đức nên hồn thiêng dân tộc, sống chết cùng quê hương để làm nên lịch sử. Liệu có sự lẫn lộn nào, nhìn gà hóa cuốc, do Tư duy lệch lạc, giữa cái bản sắc và cái lạc hậu xấu xí ở đây không? Quan trọng hơn, là giữa cái nhìn hiện tượng bộ phân, với cái nhìn xu thế vận động của toàn hệ thống? Việc thống kê những cái xấu, dù nó có thực trong cuộc sống đi nữa, cũng không đáng phải xướng lên giữa thanh thiên cộng đồng trong và ngoài nước để đòi thay đổi, bởi vì nó không tương xứng với tri thức mà thời đại đang cần.

Cũng buồn lòng không kém, khi một vị Giáo sư cao niên, lại nêu lên một khám phá đầy ắp thông tin, rằng Người Việt Nam tư duy bằng bụng. Cái cảm giác uế tạp trong bụng, thì so sao được với độ tinh khiết của cái đầu. Vậy nên, tư duy bằng bụng thì chỉ dẫn dắt đến, một là sự u mê, và hai là sự háu ăn.
Lời nói mộc mạc dân gian cũng là một bản sắc ngôn ngữ. Chẳng hạn, để diễn đạt sự nghĩ ngợi còn dấu kin, chưa nói ra, người bình dân có thể nói : “.. . Tôi nghĩ bụng rằng”. Cách nói mang tính xét đoán dân dã ấy, là khá phổ thông, vì nó mang chất khiêm nhường, đáng quí. Nhưng đem học vấn mà soi rọi nó dưới ánh sáng hàn lâm, thì trí thức nào có thể tiếp nhận được đây?
Một hiện tượng ngôn ngữ chỉ là một yếu tố, gán nó như một hệ thống Tư duy đặc trưng, thì độ chính xác cho nhận thức phỏng còn bao nhiêu ?

Cũng tiên phong không kém trong việc khởi xướng khái niệm mới : “ Công dân toàn cầu” và “Văn hóa toàn cầu”. Việc lạm phát ngôn từ kiểu này, đã một lần bị tẩy chay, trong cái gọi là “Văn hóa Đảng”, mà người khởi xướng là một cựu quan chức cao cấp trong Ngành Văn hóa Tư tưởng.
“Công dân” theo nghĩa nào đây?, nếu theo nghĩa chính thống thì quyền hạn và nghĩa vụ công dân toàn cầu được những gì ? Nhưng cái quan trọng không phải là quyền lợi được mất, mà là Tư duy Chính trị. Một giấc mơ về Thế giới đại đồng không đúng lúc, Vậy thì ngày nay, nó chỉ có thể là lời ru ngủ Chinh trị chứa đựng nguy cơ mà thôi.
Ngay cả Châu Âu đã nhất thể hóa, lại săp tiến tới Hiến pháp chung, nhưng hồ sơ cá nhân của người dân thuộc các quốc gia trong liên minh đó, có ai đã ghi nhận mình là công dân EU và mang “EU tịch” đâu.

Lại chuyện “Văn hóa toàn cầu” cũng thế. Trong nhiều cuộc Hội thảo lớn về Giữ gìn Bản sắc Dân tộc trong thời kỳ hội nhập Kinh tế, tập hợp các nhà Khoa học ưu tú, những Trí thức của dân tộc, đã khẳng định rằng “Cuộc xâm lăng Văn hóa là cuộc xâm lăng cuối cùng của nhân loại. nó tiệm tiến nhưng đầy khốc liệt...”
Lời cảnh báo kịp thời ấy cho dân tộc, rằng Bản sắc Văn hóa của dân tộc Việt nam, tuyệt đối không phải là sản phẩm nhào nặn, lai căng, để hợp khẩu vị toàn cầu.

“ Gia nhập WTO không phải bằng mọi giá” ! Đó là lời đồng thuận vang lên từ Chính phủ Việt nam, khi cuộc thương thảo cuối cùng, căng đến nghẹt thở, vì những điều kiện Chính trị, le lói bên trong những điều kiện Kinh tế khá tinh vi.
Vậy thì những khái niệm mới khai sinh “Công dân Toàn cầu”, “Văn hóa toàn cầu” được đẻ ra từ cái gì? Trước hết và bao trùm hơn cả là sự nông nổi về Tư duy Chính trị. thứ nữa là khiếm khuyết về Tư duy Hệ thống : Đời sống Kinh tế là rất quan trọng, nhưng nó cũng chỉ là một yếu tố trong toàn bộ giá trị đời sống xã hội của Dân tộc mà thôi. Cái giá trị mà bao thế hệ của Dân tộc phải đổi bằng máu mới giành được.

Hà Yên