NHỮNG NGHIÊN CỨU MỚI VỀ CON NGƯỜI (Bài 15): PHƯƠNG PHÁP NHÌN NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ CON NGƯỜI
PGS,TS Đàm Đức Vượng
1.Phương pháp nhìn nhận và
đánh gia con người là một khoa học, gọi là khoa học đánh giá con người.
Sự phát triển của con người gắn với những chặng đường lịch sử của một
dân tộc. So với thời gian hình thành và phát triển của Vũ Trụ, thì sự
phát triển của con người chỉ là “nháy mắt, một tích tắc”. Con người
trong Trái Đất, Trái Đất trong Vũ Trụ đến nay đã có khoảng từ 2 đến 3
triệu năm.
Lúc ấy, con người đã có những dấu hiệu tách ra từ loài vật
theo quy luật tiến hóa tự nhiên. Xã hội nguyên thủy ra đời cách đây
khoảng vài vạn năm. Cách đây khoảng 5 nghìn năm, đã có một xã hội người
hình thành rõ rệt và bắt đầu xuất hiện đầu tiên một xã hội hình thành
giai cấp, như đã phân tích ở các bài trên. Dần dần hình thành “bản thân
con người” cũng với “bản thân xã hội”, như C.Mác đã từng phân tích và
gọi đó là “con người xã hội”.
Khi con người xã hội hình thành, thì cũng
dần dần nảy sinh phương pháp nhìn nhận và đánh giá con người. Vậy nhìn
nhận và nhận thức có gì khác nhau? Qua nghiên cứu, tôi thấy không có gì
khác nhau về cơ bản. Nhìn nhận là nhận biết xem con người đó thế nào, có
thực hay không, là đúng hay sai. Còn nhận thức cũng là nhận biết, hiểu
biết về thực chất của con người đó. Nó là quá trình phản ánh tái hiện
thực vào trong tư duy. Có nhận thức đúng và nhận thức sai, có nhận thức
một chiều và nhận thức hai chiều. Nhận thức luận là lý luận về nhận thức
trên nền tảng của triết học, chuyên nghiên cứu nguồn gốc và giá trị về
nhận thức của con người đối với các hoạt động xã hội như kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngoại giao,… Nhận thức luận và tư duy có khác gì nhau? Xét
về mặt triết học, tư duy là sản phẩm cao nhất của cải vật chất được tổ
chức đặc biệt trong bộ não người, quá trình phản ánh tích cực thế giới
khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận,… Tư duy (suy nghĩ)
cũng là một sản phẩm của xã hội, trong đó, có con người sống trong xã
hội đó. Nhận thức và tư duy chỉ thuộc về con người. Con vật không có
nhận thức và tư duy. Nhận thức là quá trình phản ánh và tái tạo lại hiện
thực ở trong tư duy của con người, nó được quyết định bởi những quy
luật phát triển xã hội và gắn liền không thể tách rời với thực tiễn. Mục
đích của nhận thức là đạt tới chân lý khách quan.
Một cách thức để đánh giá con người là
phương pháp. Phương pháp là cách thức để đạt tới mục tiêu, là hoạt động
được sắp xếp theo một trình tự nhất định; là cách thức tái hiện lại đối
tượng nghiên cứu trong tư duy. Phương pháp gắn bó chặt chẽ với lý luận.
Phương pháp nhận thức chung nhất là phép biện chứng duy vật. Tư tưởng cơ
bản của phương pháp quan sát biện chứng tự nhiên và xã hội thể hiện rõ
rệt ở chỗ là một sự vật nào đó chỉ có thể được lý giải nếu người ta
nghiên cứu nó trong sự vận động và phát triển của nó, trong các mối quan
hệ với các hiện tượng và sự vật khác, trong sự tác động qua lại với
hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Con người ở đây để nhìn nhận và đánh giá là
con người của hiện thực, chứ không phải con người trừu tượng, cho nên
việc nhìn nhận và đánh giá cũng phải xuất phát từ hiện thực khi con
người hoạt động trên mảnh đất đó.
Do có những nhận thức khác nhau và phương
pháp (cách) đánh giá khác nhau, cùng một hiện tượng, một sự vật do con
người tạo nên, nhưng lại có sự đánh giá khác nhau. Cách đây mấy chục
năm, màn ảnh thế giới chiếu bộ phim “Ôtenlô” dựa theo kịch bản của nhà
đại văn hào người nước Anh, gốc nước Ý, tên là Sếchxpea. Câu chuyện mô
tả sự ghen tuông đến man rợ của một viên tướng đảo lừng danh chiến trận
và chiến công, người da đen, tên là Ôtenlô đã bóp cổ chết người vợ da
trắng tuyệt đẹp tên là Đétxđêmôna. Khi diễn viên đóng vai Ôtenlô đang
bóp cổ Đétxđêmôna, thì ở bên dưới có khán giả nổ phát súng xuyên qua màn
ảnh bắn vào đầu Ôtenlô, vì vị khán giả này quá căm thù hành động dã man
của Ôtenlô, cho nên đã “bắn chết” Ôtenlô trên màn ảnh. Sự kiện này, có
hai cách nhìn, hai phương pháp đánh giá khác nhau. Một loại ý kiến cho
rằng, diễn viên đóng vai Ôtenlô là tồi, vì đóng như thật ở ngoài đời,
không có sự phân biệt giữa đóng phim với ngoài đời. Một loại ý kiến khác
ca ngợi diễn viên đóng vai Ôtenlô là như thật, thật đến nỗi không phân
biệt được cuộc sống trong phim ảnh và cuộc sống ở ngoài đời. Tôi thì cho
rằng, đã gọi là diễn viên giỏi, thì anh ta phải biết phân biệt giữa
cuộc sống thật ở ngoài đời với việc đóng phim. Anh mang 100% cái thật ở
ngoài đời là anh đang tái tạo lại cuộc sống thật, chứ không phải là anh
đang đóng phim. Người diễn viên giỏi là người phải biết phân biệt giữa
phim ảnh và cuộc đời, để rồi khi đóng phim không lầm lẫn giữa cuộc đời
thật và phim ảnh. Cuộc sống thật ít chất nghệ thuật, còn trong phim ảnh
lại rất cần đến chất nghệ thuật. Lại có lần, trong một cuộc hội thảo về
thơ do một thi đàn tổ chức, có một nhà thơ phát biểu là “nghệ thuật phải
vì nhân sinh”. Tự nhiên, có một nhà văn phản đối luôn: “Nghệ thuật
không phải vì nhân sinh, mà trước hết phải vì nghệ thuật”. Rồi có một số
người khác cũng phụ họa vào, cho rằng, trước hết, nghệ thuật phải vì
nghệ thuật, làm người nêu quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” phải “rút
lui”, im hơi lặng tiếng. Rõ ràng, cùng một sự kiện, cách nhìn nhận và
đánh giá lại khác nhau. Đó là do quan điểm nhận thức và phương pháp đánh
giá của mỗi người khác nhau. Thời kỳ dựng Đảng, có nhà phê bình văn học
đánh giá “nghệ thuật phải vì nhân sinh”. Tôi thấy sự đánh giá này mới
chỉ đúng một nửa. Nghệ thuật phải vì cả nghệ thuật lẫn vì nhân sinh. Anh
có nâng được chất nghệ thuật lên, thì anh mới phục vụ nhân sinh được
tốt. Nhưng nếu nghệ thuật chỉ vì nghệ thuật sẽ dẫn đến nghệ thuật thuần
túy, anh sẽ tách rời khỏi đời sống xã hội. Vấn đề là phải có sự kết hợp
giữa nghệ thuật vị nghệ thuật với nghệ thuật vị nhân sinh. Nếu kết hợp
cả hai cái đó, thì nghệ thuật được tôn lên và nhân sinh cũng được tôn
lên ở tầm cao mới.
Chỉ có xem con người là thước đo bên trong
của đời sống xã hội, thì khi nhìn nhận, đánh giá con người mới tương đối
chuẩn. Những tiến bộ trong việc hình thành, giáo dục và định hình con
người là những tiến bộ của toàn xã hội với tính cách là một tổng thể và
ngược lại, các tiến bộ xã hội lại tạo ra khả năng phát triển hơn nữa của
con người.
2.Làm thế nào để đánh giá con người được
đúng, trong lúc chúng ta thường nói: “Đi lâu mới biết đường dài/Ở lâu
mới biết con người gian, ngay”. Đây là cả một vấn đề khoa học, nghệ
thuật, tâm lý của người đánh giá. Lục tìm trong sử sách, chúng ta thấy
người đời xưa học rộng tài cao như Trang Tử, nhưng vẫn phải kêu lên:
“Trời thì hằng năm còn có xuân, hạ, thu, đồng, hằng ngày còn có buổi
sáng, buổi tối, ta do đấy mà biết được. Đến như người ta thì có kẻ ngoài
rõ như cẩn hậu, mà trong thật kiêu căng; có kẻ trông rõ thật tài giỏi
mà ngoài ra coi như ngu độn; có kẻ ngoài rõ như vững vàng, thư thái mà
trong cuống rối nóng nảy. Tâm tính bên trong, diện mạo bên ngoài trái
nhau khó lường như thế”1.
Rồi Trang Tử đưa ra một loạt biện pháp để xem xét con người, như điều
người đó đi xa để xem lòng trung thành; bố trí làm việc ở gần để xem
lòng kính; sai làm nhiều việc để xem cái tài; hỏi lúc vội vàng để xem
cái trí; hẹn cho ngặt ngày để xem có tín hay không; giao cho công việc
nguy biến để xem có khí tiết hay không; cho ăn uống thật no say để xem
cử chỉ, lời nói ra sao; bố trí cho ở chỗ chật hẹp, phiền tạp để dò xem
thần sắc thế nào; cho quan hệ, ân ái với nhiều mỹ nữ để xem sự sa đọa
đến đâu,… Trang Tử cho rằng, chỉ có làm theo cách đó, may ra mới biết
được lòng người.
Trong vấn đề đánh giá người, Chủ tịch Hồ
Chí Minh làm theo cách của Người: Để cán bộ có lòng trung thành với Tổ
quốc và nhân dân, Người giáo dục lý tưởng cách mạng cho họ; để cán bộ có
đạo đức, Người giáo dục đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư cho họ; để cán bộ phát triển được tài năng, Người khuyên họ không
ngừng học tập, rèn luyện và kiên nhẫn làm việc. Trước khi dùng, Người
bao giờ cũng huấn luyện trước. Trước và trong khi dùng người, Người đều
có nhận xét, đánh giá đúng.
Hồ Chí Minh nói nhiều đến
tư cách của người đánh giá cán bộ. Theo Người, muốn đánh giá đúng về
một con người, thì người đánh giá phải đủ tư cách. Không đủ tư cách thì
không thể đánh giá được cán bộ. Đó là vấn đề trước hết mà Người yêu cầu.
Người coi đó là vấn đề lương tâm và danh dự. Người nói: “Đã không tự
biết mình thì khó mà biết người. Vì vậy, muốn biết đúng sự phải, trái ở
người ta, thì trước phải biết đúng sự phải, trái của mình. Nếu không
biết sự phải, trái ở mình thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt
hay xấu”2. Ở đây, Người muốn nêu tấm gương sáng của người đánh giá cán
bộ. Hồ Chí Minh nêu kinh nghiệm và phương pháp đánh giá cán bộ, đánh giá
con người: Muốn biết ai tốt, ai xấu phải chăm hỏi nhân dân, cụ thể phải
chăm hỏi những ai biết người đó. Cũng có thể khi hỏi, có người đánh giá
sai về người mình định hỏi, nhưng cũng có nhiều người nói đúng. Ai đúng
thì ta nghe, ai nói sai thì ta bỏ. Cũng như sau trận bão, quả xanh quả
đỏ đều rụng hết. Người nhặt phải biết chọn quả đỏ, bỏ quả xanh. “Khi xem
xét tính chất của họ, không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn
bộ cả lịch sử, toàn cả công việc của họ”3
Trong một số cuộc họp thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh có nhận
xét: Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, có người lúc phong
trào cách mạng lên cao, họ vào Đảng, làm việc hăng hái. Đến lúc cách
mạng thoái trào, họ đâm ra hoang mang. Lúc gặp nguy hiểm, có người không
chịu được đã phản lại cách mạng, làm mật thám. Khi làm mật thám, để che
lấp cái mật thám, họ càng làm việc hăng, tỏ ra ngoan ngoãn. Nếu ta
không xem xét rõ ràng, thì lầm to, cho họ là cán bộ tốt. Vì vậy, theo
Người, “nhận xét cán bộ, không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc,
một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”4. Những người
cơ hội, lợi dụng đã kích người khác, dìm đồng nghiệp, đồng chí, mưu hại
đồng nghiệp, đồng chí, tự đề cao mình, đánh bóng mình là những người
không xứng với danh hiệu “cán bộ”, cần phải giáo dục cho họ từ bỏ những
thói xấu đó. Hồ Chí Minh nói tiêu chuẩn của người cán bộ là phải có
“nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”.
Hồ Chí Minh nêu mẫu mực tuyệt vời về quan
điểm và phương pháp đánh giá cán bộ. Quan điểm về đánh giá con người của
Hồ Chí Minh là rất thực tế, xuất phát từ thực tế đời sống và hoạt động
của con người, chứ Người không bao giờ đánh giá con người một cách viển
vông, vu vơ, chụp giật, trừu tượng. Đó là quan điểm sống, quan điểm tích
cực của một nhà cách mạng chân chính.
Hồ Chí Minh rất nghiêm khắc đối với những
cán bộ thoái hóa, biến chất. Trong một phiên họp của Hội đồng Chính phủ
từ ngày 15 đến ngày 17-11-1950, tại Việt Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
các vị trong Hội đồng Chính phủ đã nghe vị đại diện Bộ Quốc phòng trình
bày về vụ án Trần Dụ Châu lúc ấy là Giám đốc Nha Quân nhu đã phạm tội
tham ô lớn tiền công quỹ để sống xa hoa, trác táng, ảnh hưởng xấu đến uy
tín của Đảng và Quân đội. Tòa án binh đã khởi tố và kết án tử hình Trần
Dụ Châu. Nghe báo cáo, vị Chủ tịch Nước rất buồn. Người kết luận: “Về
vụ Trần Dụ Châu, chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm. Chúng ta không
có chính sách cán bộ đúng. Chúng ta sinh trưởng trong một xã hội lạc
hậu, nhiễm thực dân, phong kiến, xã hội cũ hám danh hám lợi, danh lợi dễ
làm hư người. Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không
có chính sách cải tạo cán bộ, đây là khuyết điểm. Chính sách cán bộ thế
nào? Lúc tìm người phải tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán
bộ biết thương dân, tiếc của dân, thì không xảy ra việc đáng tiếc. Đồng
thời, phải giáo dục, cải tạo, kiểm tra cán bộ”5. Rồi Người yêu cầu phải
đẩy mạnh việc tự phê bình và phê bình trong Đảng và trong các cơ quan
chính quyền, đoàn thể, các lực lượng vũ trang và an ninh. Người nói:
“Nhược điểm của chúng ta là hay nể nả. Mình chỉ biết mình thanh liêm là
đủ. Quan niệm “thanh cao tự thú” là không đủ. Tất cả chúng ta phụ trách
trước nhân dân; trong anh em phải có tự phê bình và phê bình. Phải mở
cửa khuyến khích lãnh đạo tự phê bình và phê bình”6.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, có Trương Việt
Hùng lúc ấy là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Phủ Thủ tướng (hàm Thứ
trưởng) bị kết án tử hình, vì đã giết chết một cách dã man người vợ thân
yêu của mình để yêu say đắm một phụ nữ khác.
Hồ Chí Minh rất buồn và hoàn toàn không một
chút nhân nhượng đối với loại cán bộ thoái hóa biến chất như Châu,
Hùng. Người coi việc thi hành bản án tử hình đối với những loại cán bộ
này là cần thiết.
3.Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống đã xảy
ra biết bao diễn biến phức tạp khi nhìn nhận và đánh giá con người.
Thực ra, cũng chẳng có quy ước nào về việc đánh giá con người nói chung,
nhưng trong thực tế thường xảy ra hiện tượng người này nhìn nhận và
đánh giá người kia với nhiều góc độ khác nhau: Anh ta là người tốt; anh
ta là người không tốt; anh ta có nhiều tật xấu hơn là những đức tính
tốt; anh ta có nhiều sở đoản và không thấy sở trường đâu cả. Anh ta và
anh ta… Đánh giá một cách bâng quơ như vậy, xảy ra rất nhiều trong cuộc
sống hằng ngày và trong công vụ. Rồi lại có tình trạng suy diễn: Nghe
nói anh ta ăn chơi trác táng, rượu chè be bét, làm ít, nói nhiều, chẳng
làm nên trò trống gì. Cái “nghe nói” này không chỉ diễn ra trong xã hội,
trong các cuộc nhậu nhẹt, mà nó còn diễn ra trong một số cuộc họp. Họ
tùy tiện đánh giá người này người kia (cũng có thể người bị đánh giá đó
đương còn tại chức hoặc đã về hưu) một cách chủ quan, mang nặng sự hằn
thù cá nhân, sự ghen tức của một bộ phận người này đối với một bộ phận
người khác. Có người muốn đẩy đồng chí mình về nghỉ sớm, đưa ra quy định
là đến tuổi 70 phải nghỉ. Nhưng đến lượt anh ta, quá 70, mà vẫn an tọa
tại nơi công đường? Có người biết chức vụ của mình đang bị lung lay, mà
người thay thế đã “được nhắm”, cho nên đã tìm mọi cách gièm pha, nói xấu
người sắp thay mình, đẩy người sắp thay mình từ tốt trở thành xấu. Thực
ra, con người ta ai cũng có sở trường, sở đoản, chẳng ai là người hoàn
hảo cả. Sở trường là chỗ mạnh, chỗ giỏi, sự thành thạo trong công tác
quản lý và chuyên môn của người đó; sở đoản là chỗ kém, chỗ yếu vốn có
của người đó. Vấn đề là ở chỗ người lãnh đạo, quản lý phải biết phát huy
sở trường của mỗi người và biết khắc phục sở đoản của mỗi người. Đánh
giá về sở trường, sở đoản là một khoa học và nghệ thuật. Đem lòng yêu,
ghét cá nhân vào trong việc đánh giá con người là một việc làm thiếu
nhân tâm trong mối quan hệ giữa người và người. Người ta chẳng có tư thù
gì với anh, bản chất anh ta là tốt, nhưng khi đánh giá, anh lại bị
người đời bẻ cong, thật là một con người sống theo kiểu trắng đen lẫn
lộn, tà, chính không phân mình. Có lần, có một vị giáo sư kể với tôi
rằng, mình chẳng có tội gì cả, cũng chẳng phải là người có quan điểm sai
trái, chỉ có phát ngôn hơi “vượt quá giới hạn một chút” và sự vượt quá
này cũng là để phát triển thêm những vấn đề lớn của đường lối, chính
sách, chứ không phải đi ngược đường lối, chính sách, nhưng cũng bị những
phần tử cơ hội trong cơ quan bơm to sự việc, đánh giá là lập trường
quan điểm sai trái và phải chịu một hình thức kỷ luật? Thật trớ trêu!
Đánh giá về xã hội Việt Nam hiện nay cũng đang còn khác nhau: người
khen, kẻ chê. Phải khẳng định rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta
là tốt đẹp, đại đa số nhân dân ta là những người tốt, những người đang
vươn tới cái chân, thiện, mỹ của một nền cộng hòa mang tính chất xã hội
chủ nghĩa, nhưng bên cạnh đó lại có những người làm xấu đi bộ mặt xã
hội, như sống tiêu cực, cá nhân chủ nghĩa, chỉ biết mình mà không biết
người, tham nhũng, tiêu cực, gây lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà
nước,… gọi chung là những người tiêu cực. Vì vậy, cần phải tăng cường
giáo dục và xử lý bằng pháp luật đối với những người đó.
4.Muốn nhìn nhận và đánh giá đúng con
người, thì phải áp dụng phương pháp lịch sử kết hợp với lôgích. Lịch sử
là lý lịch và quá trình hoạt động của người đó; lôgích là những vấn đề
rút ra trong quá trình hoạt động của người đó, là cái khái quát của lịch
sử. Cái lịch sử và cái lôgích nằm trong mọt sự thống nhất biện chứng,
bao hàm cả yếu tố mâu thuẫn lẫn nhau. Tính thống nhất của chúng được thể
hiện ở chỗ cái lịch sử chứa đựng cái lôgích ở mức độ mà mọi quá trình
phát triển đều mang yếu tố khách quan, tính tất yếu của nó dẫn đến kết
quả nhất định, trong khi đó, cái lôgích lại được nhận xét, đánh giá với
lăng kính chủ quan của người đánh giá. Tính thống nhất của cả lịch sử và
lôgích được thể hiện ở chỗ mối tương quan và sự lệ thuộc lẫn nhau của
các mặt toàn thể. Vì vậy, có thể nói, cái lôgích bao hàm cái lịch sử và
cái lịch sử bao hàm và cái lôgích. Sự bao hàm này không có nghĩa đồng
nhất giữa lịch sử và lôgích làm một, mà phải nhìn nhận sự thống nhất
trong cái không đồng nhất. Kết hợp giữa lịch sử và lôgích để nhìn nhận,
đánh giá con người sẽ dẫn đến sự công bằng và khách quan tương đối trong
khi đánh giá.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
Đảng đã ra một số văn bản về công tác phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo,
đánh giá cán bộ trước khi bổ nhiệm. Để có cơ sở đúng đắn đánh giá một
cán bộ, một con người một cách nghiêm túc, tháng 8-2017, Bộ Chính trị
khóa XII ra Quy định 90, quy định tiêu chuẩn, chức danh, tiêu chí đánh
giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
quản lý, cụ thể tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Ủy
viên Bộ Chính trị; Ủy viên Ban Bí thư; Tổng Bí thư; Chủ tịch Nước; Thủ
tướng Chính phủ; Chủ tịch Quốc hội; Thường trực Ban Bí thư; Trưởng Ban
Đảng Trung ương; Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Chủ tịch Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch Nước; Phó Chủ tịch
Quốc hội; Phó Thủ tướng Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc;
Chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội; Tổng Thư ký Quốc hội; Chủ nhiệm Văn
phòng Quốc hội; Thủ trưởng các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Bộ trưởng và tương đương; Trưởng các đoàn thể chính trị – xã hội Trung
ương; Bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; Chủ tịch hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố; Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố.
Quy định đề ra tiêu chuẩn chung, về chính
trị tư tưởng; về đạo đức, lối sống; về trình độ; về năng lực và uy tín
và tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh.
Quy định cũng đưa ra những tiêu chí đánh
giá cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó, có nhóm tiêu chí về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong, lề lối làm việc, ý thức tổ chức
kỷ luật; nhóm tiêu chí về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao…
Sau khi nghiên cứu, tôi thấy Quy định này
mang tính Đảng và tính khoa học sâu sắc. Hy vọng, với Quy định này, cùng
với việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước, công tác tổ
chức – cán bộ của Đảng sẽ mở ra hy vọng mới trong công cuộc đổi mới đất
nước.
——————-
1 Cổ học tinh hoa, quyển 2, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 154.
2.Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.497.
3.Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, sđd, tr. 497.
4.Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, sđd, tr. 497.
5.Trích Biên bản cuộc họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 15 đến ngày 17-11-1950.
6.Trích Biên bản cuộc họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 15 đến ngày 17-11-1950.